Thứ Năm, 30 tháng 4, 2020

Hình ảnh ga ngầm Metro đầu tiên được hoàn thành ở Sài Gòn

Hình ảnh ga ngầm Metro đầu tiên được hoàn thành ở Sài Gòn

 Paris <nxlinou90@gmail.com>
Đến:Lap,yen dang,Kien,DAC NG CAO,Duc
Th 6, 1 thg 5 lúc 0:54

Hello,
Xin chuyên tiêp.

NX Linh


Hình ảnh ga ngầm Metro đầu tiên được hoàn thành ở Sài Gòn: Ngỡ như “thiên đường” dưới lòng đất, thiết kế theo kiến trúc của Nhà hát Thành phố

Có 5 vị trí có thể tiếp cận đi xuống nhà ga ngầm Nhà hát TP.

Ga ngầm Metro đầu tiên được hoàn thành ở Sài Gòn. Toàn bộ họa tiết, màu sắc, ánh sáng được thiết kế theo lối kiến trúc của Nhà hát thành phố
Mới đây, tầng B1 ga Nhà hát Thành phố (quận 1) thuộc dự án tuyến đường sắt đô thị Bến Thành – Suối Tiên (Metro số 1) cơ bản đã hoàn thiện. Đây là hạng mục đầu tiên của dự án nhà ga ngầm thuộc tuyến Metro được hoàn thành và hoàn thành trước tiến độ gần 100 ngày so với kế hoạch ban đầu của nhà thầu.  

Và đặc biệt hơn khi một phần của nhà ga ngầm Metro được hoàn thiện trước dịp lễ 30/4/2020, mang dấu ấn to lớn trong việc phát triển đô thị của TP. HCM. Để có được những thành quả hơn mong đợi ấy, toàn bộ công nhân, kỹ sư, thiết kế,… của Việt Nam và Nhật Bản đã nỗ lực thi công xuyên mùa dịch Covid-19, để có thể đón người dân vào tham quan trong dịp lễ 30/4 tới đây. 
Phía trên mặt đất của ga ngầm Nhà hát TP được cải tạo thành vườn hoa.
 
Có cơ hội bước vào bên trong nhà ga ngầm Nhà hát Thành phố, điều đầu tiên ập vào mắt chúng tôi là sự choáng ngợp. 
Một kỹ sư trong Ban quản lý đường sắt đô thị cũng giới thiệu về công trình đặc biệt này đó là toàn bộ kiến trúc bên trong nhà ga ngầm này đều theo kiểu kiến trúc của Nhà hát Thành phố đang hiện hữu. Những gam màu trên tường, ánh sáng, hoạ tiết trang trí,… đều mang hơi hướng của nhà hát. 
Anh kỹ sư này cũng chia sẻ thêm, tất cả 3 nhà ga ngầm của tuyến Metro số 1 cũng sẽ được thiết kế theo kiến trúc của từng địa danh, như ga Nhà hát TP thì kiến trúc theo Nhà hát TP, ga Bến Thành thì kiến trúc theo chợ Bến Thành, ga Ba Son cũng vậy. 
Tất cả 3 nhà ga ngầm đều theo kiến trúc của từng địa danh để khi người dân đi tàu sẽ cảm nhận được mình đang ở nhà ga nào. 
Ga ngầm Nhà hát TP hiện có 5 vị trí có thể tiếp cận đi xuống, gồm đoạn trước cửa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn, khu vực đường Lê Lợi, khu vực Sài Gòn Square và khách sạn Rex – tất cả đều là những vị trí xung quanh Nhà hát TP.

Không gian của nhà ga Nhà hát TP được thiết kế khá rộng từ khu vực bán vé, đi dạo tham quan, đi tàu,… với chiều dài 190m, rộng 26m. 
Cầu thang đi xuống tầng 1 nhà ga ngầm.

Toàn bộ ga ngầm gồm 4 tầng, riêng tầng B1 đã hoàn thiện cơ bản, 3 tầng còn lại đang xây dựng. Tầng 1 là nơi đặt các trang thiết bị phục vụ hành khách (sảnh đợi, máy bán vé, cổng thu phí tự động, nhà vệ sinh), phòng hướng dẫn thông tin cho hành khách. 
Từ tầng B1 này hành khách sẽ di chuyển thông tới tầng B2 và B4, cả 2 tầng này là sân ga, nơi tàu dừng, đỗ để đón trả khách. Còn tầng B3 được thiết kế để trang thiết bị cho nhân viên ga, trung tâm kiểm soát thảm họa, khu vực nghỉ ngơi và các phòng thiết bị điện, máy điều hòa không khí và hệ thống thông gió, phòng cơ điện (hệ thống bơm nước thải), các ống thông gió của nhà ga. 

Việc đi lại giữa các tầng khi đi tàu được thiết kế thuận tiện cho hành khách, đặc biệt có vạch kẻ nổi bật dành người khiếm thị. Ngoài ra còn có thang máy, thang cuốn và thang bộ kết nối giữa các tầng. Đặc biệt lối đi cho khách tham quan nhà ga khá rộng rãi (khoảng 6 mét), người dân có thể thoải mái đi dạo dưới không gian như một sân khấu hiện đại giữa lòng đất trung tâm Sài Gòn. 
Ban Quản lý đường sắt đô thị TP. HCM chia sẻ, sẽ tiếp tục phối hợp các đơn vị liên quan triển khai tăng tốc thi công các hạng mục tiếp theo của dự án như: lắp đặt hệ thống đường ray, hệ thống cơ điện, thông tin tín hiệu … trên toàn tuyến và lắp đặt trang thiết bị, hoàn thiện tại các nhà ga, đảm bảo hoàn thành 85% khối lượng dự án trong năm 2020, hướng tới mục tiêu phấn đấu đưa dự án vào vận hành và tiến tới vận hành khai thác cuối năm 2021.
Sau khi mua vé, khách sẽ đi qua cổng kiểm soát vé lần nữa.


Quầy thông tin dành cho khách hàng.


Thông tin và hình ảnh về tuyến Metro.

Hành lang được ngăn cách bằng kính cường lực.


Không gian, gam màu,… được thiết kế giống như kiến trúc của Nhà hát Thành phố.


Không gian rộng rãi cho khách đi lại.


Đường hầm tàu chạy. 

Những kẻ khốn nạn --- (Tác giả : Thomas Sowell group)


Những kẻ khốn nạn --- (Tác giả : Thomas Sowell group)


 

Những kẻ khốn nạn
Tác giả Thomas Sowell groupNguồnThreader / Núi Ấn Sông TràTái đăng: 2020-04-26


"Mày là thằng khốn nạn !"
Một người đàn ông tên Harold, và một thằng khốn nạn tên là Barack.
Điều này tóm tắt quan điểm mà Obama/Biden và hầu hết những người thuộc phe Dân Chủ nhận định về giới quân nhân Hoa Kỳ ra sao:
Harold đã từng là một đứa trẻ rất thông minh. Anh lớn lên ở Mỹ. Anh đi học và có một tương lai tươi sáng chói phía trước. Harold tràn đầy sức sống nhưng cuộc đời bị cắt ngắn trong một giai đoạn hung bạo của chiến tranh. Trong khi ít người từng nghe nói về Harold trước khi ông chết, thì nhiều người đã biết đến ông sau cái chết của ông.
Trong cái chết thì chuyện gì đó rất sốc đã xảy đến. Điều gì gây sốc như vậy, đặc biệt là khi nó được so sánh với cái chết của người khác gần đây trong tin tức?
Harold Greene
Harold là tên của Thiếu tướng Harold Greene Lục Quân Hoa Kỳ. Vào ngày 5 tháng 8 năm 2014, Thiếu tướng Greene đã bị giết bởi một tên khủng bố Taliban.
Ông được đưa trở về Mỹ với mọi lễ nghi vinh dự quân sự đầy đủ.
Có một truyền thống là Tổng Thống phải tham dự lễ tang của một sĩ quan cấp Tướng và của các sĩ quan cao cấp bị tử trận trong khi thi hành nhiệm vụ.
Tổng Thống Richard Nixon đã tham dự tang lễ của một Thiếu tướng Casey bị giết tại Việt Nam và Tổng Thống George W. Bush đã tham dự lễ tang của Trung tướng Timothy Maude, người đã thiệt mạng trong vụ tấn công 11/9.
Trong khi Thiếu tướng Greene được chôn cất, thằng khốn nạn Barack Obama vẫn đang bình thản đi đánh golf. Phó tổng thống Bí Đái (Biden) cũng không ở đó. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng không luôn.
Thậm chí lá cờ Mỹ cũng không được treo nửa chừng cột.
Bốn ngày sau khi Harold Greene hy sinh mạng sống cho nước Mỹ, thanh niên da đen Michael Brown đã bị giết ở Ferguson, Missouri.


Michael Brown
Michael Brown là một tên da đen du thủ du thực trẻ tuổi. Vài phút trước khi hắn bị bắn chết, tên du côn này đã thực hiện một vụ cướp tại một cửa hàng tạp hóa địa phương.
Theo các báo cáo khác, Brown đã tấn công viên cảnh sát Darren Wilson và đánh vỡ xương hốc mắt của ông ta. Obama đã long trọng phái một phái đoàn ba người đại diện tòa Bạch Ốc đến chia buồn và tham dự đám tang của tên cướp Michael Brown!
Cả Obama và Biden đều đã không tham dự đám tang của sĩ quan quân đội cấp cao nhất đã hy sinh trong nhiệm vụ kể từ ngày 9/11, nhưng chúng nó đã phái một phái đoàn đến dự đám tang của một tên côn đồ vô loại chỉ vì nó da màu đen.
Khi bà Thủ tướng Margaret Thatcher, một trong những đồng minh trung thành nhất của Mỹ và là đối tác của Ronald Reagan trong việc hạ bệ chủ nghĩa cộng sản Xô Viết qua đời, Obama chỉ gửi qua loa một phái đoàn cấp thấp nhỏ đến đám tang của bà Thủ tướng Thatcher. Chuyện qua loa này của Obama không qua mặt được chính quyền Anh Quốc.
Khi Chris Kyle, tay Người lính Thiện Xạ Hoa Kỳ sát thủ lợi hại nhất trong lịch sử bị sát hại, không có biểu hiện cảm thông nào từ tòa Bạch Ốc.
Whitney Houston
Nhưng khi danh ca da đen Whitney Houston chết vì quá liều ma túy, chính quyền Obama / Biden đã ra lệnh cho tất cả các nơi phải treo cờ rủ.
Không có phái đoàn tòa Bạch Ốc tại đám tang của một anh hùng Mỹ. Anh hùng Mỹ chết và Obama đi đánh golf. Còn một tên côn đồ vô loại chết thì nó đã được một phái đoàn từ tòa Bạch Ốc đến tham dự tang lễ.
Không có gì ngạc nhiên khi hầu hết người Mỹ "CHÍNH GỐC" tỏ ý khinh miệt Obama như một con chó ghẻ lộn giống như vậy, đặc biệt là từ các thành viên của Quân đội chúng ta.
Và thằng phải gió Biden hiện nay đang cố giải thích bênh vực việc chính quyền Obama / Biden "vĩ đại" như thế nào.
Xin mọi người hãy chia sẻ rộng rãi tin này vì sự công bằng của xã hội Hoa kỳ.
meohoang lược dịch

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2020

Tương lai nào sau Covid-19 ? Nguyễn Gia Kiểng -04/04/2020 - Nhận định của nhóm Tập Họp Dân Chủ Đa Nguyên


Quang Nguyen <qvnguyen01@tpg.com.au>
Đến:AA YAHOO
Th 3, 14 thg 4 lúc 19:36
                                        Tương lai nào sau Covid-19 ?

                                                                 Nguyễn Gia Kiểng -04/04/2020 - Nhận định của nhóm Tập Họp Dân Chủ Đa Nguyên

Việt Nam cho đến nay có vẻ là một trong những nước may mắn nhất. Đại dịch Covid-19 hình như tha cho nước ta. Tuy vậy sẽ là một sai lầm lớn, rất lớn, nếu vui mừng vì đất nước thoát hiểm. Thực ra có lẽ chúng ta là nước bị thiệt hại nhất vì Covid-19.

covid01
Bản đồ những quốc gia và lãnh thổ bị lây nhiễm bởi đại dịch Covid-19

Một nửa nhân loại bị câu lưu. Mọi hoạt động ngừng lại hoặc chậm lại. Nhiều ngàn người chết mỗi ngày. Thiệt hại kinh tế đã rất bất ngờ và lớn hơn hẳn cuộc khủng hoảng 2008 dù vẫn còn đang tăng vụt. Donald Trump không phải là người lãnh đạo quốc gia duy nhất đánh giá sai sức tàn phá của đại dịch Covid-19. Cho đến đầu tháng 03/2020, các nước Tây Âu vẫn không thể ngờ rằng chỉ một tuần sau họ sẽ trở thành trung tâm của dịch và phải ngừng gần hết mọi hoạt động. Bây giờ đến lượt Mỹ.

Một bài học khiêm tốn đắt giá
Điều đầu tiên đáng nói là thảm họa này không do một sai lầm của con người, dù là các chính quyền hay các thế lực tài phiệt, như trong quá khứ.
Cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 đã do lòng tham của các ngân hàng lớn và sự thiển cận của chính sách America First (nước Mỹ trước hết) của chính quyền Harding - Coolidge mà Donald Trump đang lặp lại. (America First đã là khẩu hiệu tranh cử của Harding với kết quả là một thảm kịch cho cả thế giới lẫn chính nước Mỹ). Hai cuộc Thế chiến I và II đã do chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi (nationalism) của các chính quyền quân phiệt, phát xít, quốc xã. Nội chiến Việt Nam 1945 - 1975 đã do sự mê muội của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và nhóm cầm quyền trong Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc khủng hoảng 2008 gần đây đã là hậu quả của chủ nghĩa Tân phóng khoáng (Neoliberalism) được đẩy quá xa từ thời Bill Clinton.

Covid-19 không như thế. Không ai muốn cũng chẳng ai gây ra. Nó là một thiên tai tự nhiên mà đến và sẽ giết chết cả triệu người và phá hủy thành quả kinh tế của hàng chục năm. Nó nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống trên trái đất này rất mỏng manh, đã từng mấy lần suýt bị hủy diệt vì những thay đổi khí hậu và những đột biến hoàn toàn không do con người. Trên quy mô vũ trụ chúng ta cũng chỉ là những vi khuẩn. Có khác chăng là chúng ta có chút trí khôn. Trí khôn đó phải giúp chúng ta hiểu rằng cố gắng chính của loài người phải là tìm cách sống với nhau một cách khiêm tốn và thân thiện. Mọi thái độ huênh hoang, đắc thắng đều chỉ là mê muội. Mọi quyền lực chỉ chính đáng nếu biết khiêm tốn tự thu gọn ở mức tối thiểu cần thiết để bảo vệ và cải tiến môi trường và đời sống con người.

covid02
Trên 40 thị trường chứng khoán lớn, 30.000 tỷ USD đã bốc hơi trong vài tuần vì các cổ phiếu sụt giá trung bình 30% trong tháng 3/2020.

Thiệt hại về kinh tế đã hơn hẳn cuộc khủng hoảng 2008. Cả cung lẫn cầu đều bị tê liệt. Trên 40 thị trường chứng khoán lớn, 30.000 tỷ USD đã bốc hơi trong vài tuần vì các cổ phiếu sụt giá trung bình 30% trong tháng 3/2020. Số tiền khổng lồ này là sự mất giá của phần cổ phiếu mà các công ty đem bán trên các sàn chứng khoán để huy động vốn, nó trước hết là sự thiệt hại của những ngân hàng, quỹ và cá nhân đầu tư vào các cổ phiếu. Nếu chúng ta ý thức rằng đại đa số các công ty tầm vóc trung bình và nhiều công ty lớn không đăng ký trên các thị trường chứng khoán và các công ty lớn có đăng ký cũng chỉ đem bán cho công chúng một phần nhỏ tổng số cổ phiếu của mình thì thiệt hại thực cho kinh tế thế giới lớn hơn nhiều, rất nhiều. Và đó mới chỉ là những thiệt hại ban đầu, Covid-19 vẫn còn đang tiếp tục tàn phá. Chưa biết bao giờ nó mới có thể được xem là đã qua đi để có thể tổng kết các thiệt hại. Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn còn đang thực hiện các biện pháp cách ly (confinement), với hậu quả trung bình là mỗi tháng cách ly gây thiệt hại khoảng 3% GDP.
covid03
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn còn đang thực hiện các biện pháp cách ly (confinement) - Ảnh Đại lộ 5th Avenue, Thành phố New York vắng bóng người và xe cộ qua lại

Cuối tháng 3/2020, gần hai tháng sau khi bệnh dịch được nhìn nhận tại Trung Quốc và vào lúc nó đã chuyển trung tâm qua Châu Âu đồng thời đang lan mạnh tại Mỹ, môt hội nghị thượng đỉnh G20 của 20 nước phát triển nhất mới "họp khẩn cấp" qua truyền hình đi đến thỏa thuận là sẽ cùng bơm vào 5.000 tỷ USD để cứu nguy hoạt động kinh tế thế giới. Quốc hội Mỹ biểu quyết một ngân sách 2.200 tỷ USD, Ngân hàng Trung ương Châu Âu và các nước Châu Âu cùng biểu quyết các khoản cứu nguy khoảng 4.000 tỷ USD. Các biện pháp cứu nguy này, được đánh giá là "quá trễ quá ít", chỉ có khả năng xoa dịu những đau nhức nhất thời, như giúp các công ty trả lương công nhân trong khi phải cho họ tạm nghỉ, trợ giúp những người mất việc làm, tăng cường thiết bị chống dịch cho các nhà thương, săn sóc các bệnh nhân v.v. Chúng sẽ còn phải được bổ túc thêm và đàng nào cũng chỉ có tác dụng cấp cứu chứ hoàn toàn không thể có tham vọng hồi phục lại tình trạng kinh tế trước Covid-19. Thế giới sẽ cần nhiều năm để gượng dậy và xây dựng lại những gì đã bị tàn phá.
Cho tới hôm 03/04/2020 đã có hơn 52.000 chết trong số hơn một triệu người bị nhiễm, nhưng chúng ta mới chỉ ở trong giai đoạn đầu. Theo bác sĩ Anthony Fauci, chuyên gia chính của Mỹ trong bộ tham mưu chống đại dịch, thì từ nay đến khi Covid-19 khắc phục được tổng số người bị thiệt mạng riêng tại Mỹ sẽ là từ 100.000 đến 200.000. Nếu như thế thì số người thiệt mạng trên thế giới sẽ phải hơn một triệu người mặc dù những cố gắng và tốn kém lớn đã đổ ra.

Thế giới đã văn minh và gần gũi hơn
Những con số tử vong thật là kinh khủng nhưng chúng ta hãy thử bình tĩnh để so sánh với một vài con số khác. Thí dụ như số người chết hàng năm vì các bệnh cúm quen biết trên thế giới cũng là hơn một triệu người. Số người chết vì tai nạn giao thông trên thế giới hàng năm cũng tương tự (1.250.000 năm 2016). Còn thua xa số người chết hàng năm vì thuốc lá (6.000.000) hoặc rượu (2.500.000). Riêng tại Mỹ tổng số số tử vong vì Covid-19 theo ước lượng của bác sĩ Fauci tương đương với số người thiệt mạng hàng năm vì opioid (70.000) và vì súng (40.000), những thiệt hại mà Mỹ luôn luôn phải chịu và dầu vậy kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng.
Những so sánh này không khỏi khiến những người thực dụng đặt câu hỏi nếu vẫn tận tình phấn đấu ngăn chặn Covid-19 nhưng không cách ly thì sao ? Câu hỏi này không có câu trả lời chính xác của các chuyên gia bởi vì nó đã bị gạt đi ngay khi vừa được đặt ra.
Ít nhất đã có hai người lãnh đạo hai quốc gia lớn đăt ra câu hỏi này, mỗi người một cách. Tại Mỹ Donald Trump lấy lập trường thuần túy thực dụng : biện pháp cách ly quá tốn kém, nó còn hại hơn cả Covid-19, thuốc còn hại hơn bệnh. Donald Trump coi kinh tế và chỉ số Dow Jones là quan trọng hơn cả và trong suy nghĩ của ông nếu không cách ly và giả thử vì thế mà số tử vong cao gấp đôi, thậm chí gấp ba, thì cũng chỉ tương đương với số người chết trong một năm vì rượu nhưng tránh được thiệt hại quá lớn cho kinh tế và cho hy vọng tái đắc cử của ông. Boris Johnson lý luận một cách khác : cứ để cho dịch cúm lan rộng ra, lúc đó cơ thể con người sẽ tự nhiên tạo ra một kháng thể cộng đồng để triệt tiêu nó, thay vì cách ly và chịu những thiệt hại quá lớn.
Cả hai nhà lãnh đạo này đã lập tức bị lên án và đều phải từ bỏ lập luận của họ. Thế giới đã văn minh và chính quyền không thể đùa với mạng sống của con người như Boris Johnson, hay từ chối làm tất cả những gì có thể làm dù tốn kém tới đâu để cứu vãn tối đa các công dân đang bị đe dọa tính mạng như Donald Trump. Không thể so sánh số người thiệt mạng vì rượu hay thuốc lá, trên đó chính quyền đã làm tất cả những gì có thể làm để giảm thiểu, với số người sẽ chết vì chính quyền từ chối làm tất cả những gì có thể làm.
Covid-19 vừa tiết lộ một tiến bộ về tư duy của thế giới : con người từ nay phải là giá trị cao nhất, không thể bị hy sinh vì bất cứ một lý do thực tiễn nào.
Nhưng tại sao cả Boris Johnson lẫn Donald Trump đều phải lập tức nhượng bộ sau khi bị phản đối dù cả hai đều là những lãnh tụ dân túy nổi tiếng ngang ngược ?
Đó là vì họ bị bắt buộc, không muốn nhượng bộ cũng không được. Phong trào toàn cầu hóa đã tiến sâu hơn họ tưởng. Khi phần lớn các quốc gia Châu Á và Châu Âu đã quyết định cách ly thì dù không cách ly đi nữa họ cũng phải chịu mọi hậu quả như các nước khác và số người bị chết thêm sẽ chỉ chết oan chứ thiệt hại kinh tế vẫn không giảm. Hoạt động kinh tế của các quốc gia đã quá đan xen với nhau. Thí dụ trung bình một chiếc xe hơi sản xuất tại Mỹ hoặc tại Châu Âu sử dụng những bộ phận rời đến từ 40 quốc gia khác, chỉ cần một trong 40 nước này không cung cấp được là dây sản xuất bị ngưng trệ. Tình trạng cũng tương tự như trong hầu hết các ngành sản xuất khác, đặc biệt là dược phẩm và điện tử.
Phát giác của Covid-19 là không làm gì còn nước nào độc lập nữa, ngay cả những nước mạnh nhất. Chúng ta đang sống trong một thế giới liên thuộc, trái đất đã nhỏ lại để trở thành mái nhà chung của nhân loại. Tiết lộ đó đồng thời cũng là một cảnh báo cụ thể để tăng cường một khuynh hướng đã xuất hiện gần đây và đang mạnh lên là khu vực hóa sản xuất công nghiệp. Những chiếc xe hơi được dự trù bán tại Châu Âu sẽ chủ yếu gồm những bộ phận sản xuất tại Châu Âu, tương tự như vậy cho Châu Á và Châu Mỹ và cũng tương tự cho mọi ngành sản xuất. Phong trào toàn cầu hóa sẽ vẫn tiếp tục tiến tới nhưng không bỏ qua giai đoạn hợp tác khu vực như có lúc nhiều người đã nghĩ.

Thế giới nào sau Covid-19 ?
Cùng với Covid-19, một ám ảnh lớn đã được giải tỏa. Trong những năm gần đây những tiến bộ chóng mặt của truyền thông, tự động và trí khôn nhân tạo bên cạnh những tiện nghi rất lớn và rất mới không thể chối cãi cũng đồng thời tạo ra một đe dọa. Qua những điện thoại di động và đồng hồ đeo tay điện tử, người ta có thể biết nhiệt độ, áp huyết, nhịp tim v.v. của một người để biết người đó có cần được săn sóc không. Khi tổng hợp những thông tin từ nhiều cá nhân, người ta cũng có thể biết liệu có nguy cơ xuất hiện một bệnh dịch mới không. Nhưng người ta cũng có thể biết người đó đã đi những đâu trong thời gian nào, gặp những ai, xem các website, blog, video nào với cảm giác nào. Với những trí liệu (software) ngày càng tinh vi người ta cũng có thể biết lập trường chính trị, mong ước và ý định của mỗi cá nhân (kể cả có ý muốn chửi thề khi đi ngang tượng chủ tịch Mao Trạch Đông hay Tập Cận Bình không). Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra là như vậy liệu con người có đang tạo ra những phương tiện để xóa bỏ tự do của chính mình không ?
Covid-19 gần như đã trả lời là KHÔNG. Đã không hề có một chính quyền nào trong lúc đối phó với đại dịch này mảy may tỏ ý định muốn theo gương Trung Quốc dùng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để kiểm soát con người cả. Mặc dù vẫn luôn luôn phải cảnh giác, chúng ta có thể tạm yên tâm : con người sẽ được săn sóc và phục vụ hiệu quả hơn nhưng không sợ mất tự do và không gian cá nhân.
Tác dụng nhìn thấy rõ nhất của Covid-19 là đã khiến đường phố vắng tanh ngay cả tại những thành phố nhộn nhịp nhất như Paris, Berlin, New York. Một nửa nhân loại, 2/3 trong các nước phát triển nhất, bị câu lưu tại gia.
Trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai, dự án chính trị 2015 của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, chúng tôi đã tiên liệu :
"Cả một thế giới ảo đã hình thành với tầm quan trọng gia tăng nhanh chóng. Ngay lúc này những trao đổi văn hóa, khoa học, kỹ thuật tài chính và thương mại trong thế giới ảo này, qua mạng lưới Internet, đã rất quan trọng. Trong một tương lai không xa thế giới ảo này sẽ lấn át thế giới thực, biến thế giới thực thành một trong những biểu hiện của nó" (1).
Coviq-19 đã đem tương lai này tới rất gần. Đại đa số công nhân viên đang bị bắt buộc phải làm việc tại nhà qua mạng internet. Một phần đáng kể sẽ còn tiếp tục cách làm việc này sau Covid-19, bởi vì các cơ quan và xí nghiệp đã được tổ chức lại để thích nghi với nó và phần này sẽ tiếp tục tăng lên vì cách làm việc qua mạng tiện cho cả chủ nhân lẫn công nhân viên. Những công việc bắt buộc sự hiện diện thân xác cũng sẽ chỉ đòi hỏi sự hiện diện này vài ngày mỗi tuần hay mỗi tháng. Sinh viên và học sinh cũng có thể chỉ đến trường cho một số môn học và trong một vài dịp. Nếp sống bình thường sáng đi làm tối về nhà - và những giờ kẹt xe- trong một tương lai gần sẽ thuộc về quá khứ. Ngay bây giờ đã có những dàn nhạc hòa tấu thuần túy qua mạng. Tác động trên hoạt động kinh tế và sinh hoạt hàng ngày sẽ rất lớn. Người ta sẽ không còn cần nhiều xe ôtô, nhu cầu di chuyển hàng ngày sẽ giảm, các công ty cũng không cần những văn phòng lớn.
covid04
Ngay bây giờ đã có những dàn nhạc hòa tấu thuần túy qua mạng.

Quan hệ gia đình và bạn bè cũng sẽ thay đổi. Tại Pháp sau một tháng câu lưu, số bạo hành trong gia đình và số hồ sơ ly dị đã tăng gấp đôi, tại các nước khác chắc cũng tương tự. Nhiều cặp vợ chồng khám phá ra rằng họ tuy lấy nhau nhưng không thực sự chia sẻ cuộc sống và do đó thực ra không hiểu nhau. Các xã hội sẽ không bao giờ trở lại như trước.
Một khác biệt lớn giữa Covid-19 và các cuộc khủng hoảng trước đây là đã không hề có một phối hợp nào giữa các quốc gia để có những hành động chung, trong khi đáng lẽ ra hơn bao giờ hết thế giới cần một kế hoạch toàn cầu. Phải đợi đến hơn hai tháng sau khi Covid-19 tàn phá mới có cuộc hội ý G20 ngắn ngủi qua truyền hình, trong đó không một người lãnh đạo quốc gia nào nói gì với Donald Trump hay đưa ra một đề nghị phối hợp nào. Các nước G20 đồng ý là cần 5.000 tỷ USD để cứu nguy kinh tế thế giới nhưng không quy định ai sẽ bỏ ra bao nhiêu và để sử dụng như thế nào.
Mỹ đã không đảm nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới như trong quá khứ và điều này đã không làm ai ngạc nhiên. Sau ba năm dưới sự lãnh đạo của Donald Trump, với chủ trương America First, Mỹ đã từ chối vai trò lãnh đạo thế giới và sự từ nhiệm này đã được chấp nhận. Dù Joe Biden có đắc cử tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử tháng 11 sắp tới, ông cũng sẽ không thay đổi được thực trạng này. Sự từ nhiệm và giải nhiệm này sẽ có những hậu quả lớn trong tương lai. Cụ thể là đồng Dollar Mỹ sẽ mất dần lý do để được sử dụng làm đồng tiền thanh toán và dự trữ quốc tế, và cho phép Mỹ được tùy tiện phát hành thêm tiền để tiêu xài cho mình dù cả thế giới phải chia sẻ hậu quả. Kinh tế Mỹ sẽ mất vũ khí quyết định nhất.
Còn Trung Quốc ? Đại dịch Covid-19 đã khiến hầu như mọi hoạt động tại Trung Quốc ngừng lại trong gần ba tháng. Ngân hàng Thế giới ước lượng tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc trong năm 2020 này sẽ là 0,10%, nghĩa là sát số không. Tuy vậy ước lượng này không đáng tin. Nó dựa trên con số tăng trưởng 6,1% năm 2019 do Trung Quốc đưa ra mà ai cũng biết là sai, kể cả chính thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. Kinh tế Trung Quốc chắc chắn sẽ suy sụp nặng hơn nhiều, may lắm là ở cùng mức độ dự trù cho kinh tế Đức, nghĩa là -5%.
Hậu quả sẽ như thế nào ? Cựu thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo từng tuyên bố sau cuộc khủng hoảng 2008 rằng, nếu mức tăng trưởng xuống dưới mức 8% mỗi năm thì Trung Quốc sẽ lâm vào bạo loạn. Không ai, kể cả Giang Trạch Dân, Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường phản bác Ôn Gia Bảo, bởi vì ông này chỉ nhắc lại một khế ước bất thành văn nhưng rất được biết đến giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc, theo đó nhân dân Trung Quốc chấp nhận chế độ toàn trị với điều kiện là đời sống của họ được cải thiện nhanh chóng. Mức độ cải thiện nhanh chóng đó được cụ thể hóa bằng tỷ lệ tăng trưởng trên 8%. Tỷ lệ suy thoái -5% là một sự phản bội và một thách đố. Tuy vậy, nó không phải là mối nguy lớn nhất đối với Bắc Kinh.
Mối nguy lớn nhất là từ nay Bắc Kinh không còn đảo nợ -nghĩa là vay nợ mới để trả nợ cũ- được nữa, trong khi khối nợ tổng cộng của họ đã tới mức kinh khủng 40.000 tỷ USD, hay 350% GDP, và các quỹ đầu tư cũng không còn tiền để cho vay nữa. Nhiều đại công ty sẽ phá sản theo chân tổ hợp HNA (2). Khủng hoảng kinh tế là chắc chắn. Tình hình càng nguy hiểm vì các dấu hiệu bất phục tùng đã xuất hiện khắp nơi và ngay trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc, uy tín của Tập Cận Bình đã bắt đầu bị thách thức.
Lối thoát duy nhất của chế độ cộng sản Trung Quốc là co cụm lại và dùng bạo lực để cố duy trì sự thống nhất, ít nhất trên danh nghĩa. Nếu thành công, giải pháp này sẽ biến Trung Quốc thành một thế giới riêng, một đế quốc biệt lập với thế giới bên ngoài, tuy nghèo nhưng mức sống cũng đã cao hơn nhiều so với 40 năm về trước khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giải pháp này cùng lắm chỉ giúp chế độ cộng sản Trung Quốc kéo dài thêm được một thời gian.
Như vậy thế giới sẽ không phải lo ngại một cuộc tranh hùng Mỹ - Trung để giành ngôi bá chủ. Cả hai đều sẽ lúng túng tự lo cho mình dù Trung Quốc khốn đốn hơn nhiều. Chúng ta sẽ không phải lo ngại nguy cơ Trung Quốc uy hiếp các nước trong khu vực và lộng hành trên Biển Đông.

Việt Nam : đang may bỗng rủi
Trong cơn đại họa này Việt Nam cho đến nay có vẻ là một trong những nước may mắn nhất. Đại dịch Covid-19 hình như tha cho nước ta. Tuy vậy sẽ là một sai lầm lớn, rất lớn, nếu vui mừng vì đất nước thoát hiểm. Thực ra có lẽ chúng ta là nước bị thiệt hại nhất vì Covid-19.

covid05
Thị trường bất động sản 2020 sẽ gặp nhiều khó khăn. Các đại công trình xây dựng bất động sản dỡ dang tại Hà Nội - Ảnh minh họa

Cuối năm 2019, trước khi dịch Covid-19 được biết tới, tất cả các chuyên gia và các viện nghiên cứu đều đồng ý rằng, vì nhiều lý do năm 2020, tăng trưởng kinh tế trên toàn thế giới sẽ chậm lại trừ một ngoại lệ : Việt Nam. Họ dự đoán kinh tế Việt Nam sẽ không chỉ giữ được mức tăng trưởng 7% mà còn tiến nhanh hơn nữa, có thể rất nhanh. Vì hai lý do. Một là nhiều công ty lớn đang dời các đơn vị sản xuất khỏi Trung Quốc sang Việt Nam. Hai là Hoa Kỳ và mọi nước dân chủ đã nhận ra Trung Quốc là một mối nguy cho hòa bình thế giới và cho an ninh trên Biển Đông, nơi 40% hàng hóa qua lại trong trao đổi quốc tế, do đó họ đều thấy cần phải giúp Việt Nam mạnh lên để thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc và đóng góp bảo đảm an ninh trên Biển Đông, nhất là khi Việt Nam đã tỏ rõ ý định thoát Trung. Người ta có thể thấy là Donald Trump dù nói rằng Việt Nam còn lợi dụng Mỹ hơn cả Trung Quốc cũng không hề có bất cứ một hành động trả đũa nào. Các quan sát viên có mọi lý do để chờ đợi nhiều dự án đầu tư từ khắp nơi dồn vào Việt Nam.
Nhưng Covid-19 đã bất ngờ ập tới. Lý do để giúp Việt Nam không còn vì Trung Quốc sẽ co cụm lại và không còn là mối nguy cho hòa bình thế giới và an ninh trên Biển Đông nữa. Các công ty lớn cũng đều điêu đứng và không còn vốn để đầu tư. Việc chuyển các nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng sẽ chậm lại. Không những thế, kinh tế Việt Nam còn sẽ rất khốn đốn vì quá lệ thuộc vào ngoại thương và du lịch, hai hoạt động bị tê liệt nhất trong lúc này và thời gian sắp tới. Đời sống sẽ rất khó khăn và bất mãn sẽ lên rất cao. Tương lai sán lạn biến đi nhường chỗ cho thực tại đen tối.
Như vậy phải chăng cơ hội lớn cho đất nước và dân chủ đã tan biến ?
Câu trả lời là tuy đất nước vừa bắt đầu một giai đoạn rất khó khăn nhưng tiến trình dân chủ không bị thương tổn vì chế độ toàn trị còn khốn đốn hơn nhiều. Ngay trước dịch Covid-19, các cấp lãnh đạo cộng sản đã cảnh báo rằng vấn đề nhân sự của Đại hội 13 sắp tới có thể làm Đảng cộng sản tan vỡ, một cách để nhìn nhận rằng đang có chia rẽ nội bộ nghiêm trọng. Sự chia rẽ này sẽ chỉ nghiêm trọng hơn khi không còn gì để chia nhau ngoài những tiếng gào thét của quần chúng phẫn nộ. Sự ly dị giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cũng không còn đảo ngược được nữa. Dù muốn hay không Việt Nam cũng vẫn phải sáp lại gần hơn với các nước dân chủ. Áp lực dân chủ hóa từ bên ngoài có thể sẽ không lớn như nếu không có Covid-19 vì đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ khựng lại và các nước dân chủ sẽ phải chật vật với nhiều vấn đề khác nhưng vẫn còn. Mặt khác, sự suy sụp nhanh chóng sắp tới của Trung Quốc sẽ khiến rất nhiều đảng viên cộng sản hiểu rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là một thây ma đã rữa mà họ phải khẩn cấp tránh xa.
Vào lúc này, chưa thể nói Covid-19 sẽ đẩy nhanh hơn hay làm chậm lại tiến trình dân chủ hóa đất nước. Điều chắc chắn là cuộc vận động dân chủ vẫn tiến tới và đòi hỏi những người dân chủ vất bỏ lối đấu tranh nhân sĩ để kết hợp với nhau trong một tổ chức, chung quanh một dự án chính trị.

Nguyễn Gia Kiểng
(04/04/2020)
--------------

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2020

Người vợ của nhà thơ Thế Lữ Đoàn Dự ghi chép

Người vợ của nhà thơ Thế Lữ
  Đoàn Dự ghi chép

  • nhung nguyen nhung48@yahoo.com [dd_duockhoa_vn] <dd_duockhoa_vn-noreply@yahoogroups.com>
    Đến:VPhF VPhF
    Hủy đăng ký
    CN, 19 thg 4 lúc 7:00
    Mời các bạn đọc giải trí cuối tuần


    ----- Forwarded Message -----
    From: Thu Van Le
    Sent: Friday, April 17, 2020, 7:48:59 AM PDT
    Subject: Fwd: Cuộc đời và sự nghiệp của Thế Lữ, một tài liệu qúi gía

    Người vợ của nhà thơ Thế Lữ
      Đoàn Dự ghi chép

    Thưa Quý Bạn, cứ kể những chuyện vợ chồng chán ghét nhau, ly dị nhau hoặc ghen tuông, đánh đập nhau riết cũng chán và hiện nay là vấn đề đại dịch Vũ Hán, chắc chắn báo chí các nước bên ấy đăng ầm ầm, quý bạn đã biết cả rồi. Vậy nay tôi xin “đổi món ăn chơi”, kể hầu quý bạn một câu chuyện hơi lạ về người vợ của nhà thơThế Lữ. Bà này “lạ” ở chỗ chồng bồ bịch, có vợ nhỏ ngay trước mắt mà bà vẫn cố gắng chịu đựng, không ghen tuông một tí nào cả chỉ với một niềm tin duy nhất rằng chồng là người Công giáo, theo giáo lý Công giáo đàn ông chỉ có một vợ, đàn bà chỉ có một chồng, do đó cuối cùng rồi chồng sẽ trở lại với mình. Vì vậy bà vẫn yên tâm buôn bán kiếm ăn, chăm sóc bà mẹ chồng khó tính coi như mẹ ruột của mình, và nuôi dạy con cái, 2 người con trai ăn học tới Tiến sĩ ở bên Mỹ, còn người con gái thì trở thành một nhà doanh nghiệp. Đặc biệt, từ cuối năm 1977, “chàng lãng tử” Thế Lữ nay đã 70 tuổi, vào trong Nam sống với vợ con suốt 12 năm tại tiệm vải ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ, quận 3, gần toà đại sứ Miên hiện nay là văn phòng UBND Quận 3) cho tới khi ông qua đời cũng tại Sài Gòn mà hình như đa số chúng ta không biết. Đây là câu chuyện về người đàn bà đó nhưng xin mời quý bạn xem xét về nhà thơ Thế Lữ, chồng của bà trước đã.

    I.. Tiểu sử Thế Lữ
    Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, mất năm 1989 tại Sài Gòn, hưởng thọ 82 tuổi. Sau 1975, ông từ Hà Nội vào Sài Gòn (cuối năm 1977) sống với vợ con gần 12 năm ở đường Phan Đình Phùng (cũ), quận 3, Sài Gòn, cho đến khi mất . Quê quán của cha ông ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định, nhưng sinh ra ông tại ấp Thái Hà, HàNội. Ấp Thái Hà nằm trên phần đất của 4 làng: Thịnh Quang, Nam Đồng, Khương Thượng và Yên Lãng (làng Láng), nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Gọi là “Ấp” vì đây là phần thưởng của Pháp dành cho Hoàng Cao Khải (Kinh lược sứ Bắc Kỳ, kẻ đã đàn áp phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi) như một “thực ấp” của các “đại thần” có công lao lớn thời trước. Mặc dầu Hoàng Cao Khải đã có dinh cơ tại phố Tràng Thi, Hà Nội, nhưng vẫn muốn lập cơ ngơi tại đây để sống khi về già. Ấp được Hoàng Cao Khải lập năm 1893, mang tên “Thái Hà” gồm tên làng Đông Thái và tên tỉnh Hà Tĩnh là quê quán của Hoàng Cao Khải... Những người sống ở ấp Thái Hà hàng năm đóng thuế thổ trạch cho Hoàng Cao Khải chứ không phải cho Sở Điền Địa của Pháp.

    Thế Lữ hồi còn nhỏ có một người anh lớn hơn cậu 1 tuổi (và một em gái), vì vậy cậu được cha đặt tên là Nguyễn Thứ Lễ với ngụ ý đó là con thứ. Đến năm Thế Lữ 10 tuổi, chẳng may cậu anh trai (11 tuổi) bị bệnh mất, cha bèn làm giấy khai sinh khác, đặt tên mới cho Thế Lữ là Nguyễn Đình Lễ vì họ Nguyễn Đình là một họ lớn ở làng Phù Đổng, không nên để người con trai duy nhất còn lại trong gia đình là “con thứ”. Do đó, Thế Lữ có 2 giấy khai sinh: Nguyễn Thứ Lễ và Nguyễn Đình Lễ. (Thời Pháp thuộc, khai sinh tại làng rất dễ, chỉ cần nói với “ông ký” giữ sổ sách làng vài tiếng là được, hơn nữa cha của Thế Lữ lại là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn – Hà Nội, gia đình khá giả, thỉnh thoảng ghé về quê chơi, ai cũng vị nể. Như vậy, tài liệu nào nói Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ hay Nguyễn Đình Lễ đều đúng. Sau này, tất cả các con của Thế Lữ đều mang họ Nguyễn Đình, như nhà đạo diễn sân khấu danh tiếng Nguyễn Đình Nghi tại Hà Nội chẳng hạn.

    Tuy nhiên, xem ra Thế Lữ thích cái tên Nguyễn Thứ Lễ hơn tên Nguyễn Đình Lễ. Bởi vậy khi viết văn, làm thơ, hoạt động kịch nghệ, ông đều lấy bút hiệu là “Thế Lữ”, tức nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ”. Ngoài ra, khi viết văn vui trên báo Phong Hoá và sau đó là báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương mà ông là một trong 6 thành viên cốt cán, Thế Lữ còn ký tên là “Lê Ta” với ý nghĩa: Chữ “ta”trong tiếng Việt, theo Hán tự là “ngã”; mà “ngã” theo tiếng Việt lại còn có nghĩa là dấu ngã. Bút danh “Lê Ta” tức chữ “Lê” có dấu ngã”, đó là chữ “Lễ”, tên thật của ông. Trên báo Ngày Nay số Xuân năm 1937, Thế Lữ đùa nghịch đưa ra câu nói vui: “Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ: một quả lê tây, một lê ta”, độc giả ai cũng tức cười và phục tài biến báo của ông.

    Như trên đã nói, cha của Thế Lữ là sếp ga xe lửa, trong thời Pháp thuộc rất có vai vế và có “ngoại tài” (tiền bạc ngoài lương bổng) nên gia đình rất khá giả. Tuy nhiên, mẹ của Thế Lữ buôn bán nhỏ, không giàu có gì nên gia đình bên nội không bằng lòng, song bà nội phải chiều ý con trai, tổ chức cho hai người một đám cưới nho nhỏ tại Hải Phòng, nơi cô dâu buôn bán ở đây. Tuy nhiên, ít lâu sau, bà nội lại cưới cho cha của Thế Lữ một cô gái con nhà giàu ở Lạng Sơn và cho cô này làm vợ cả, còn mẹ của Thế Lữ thì làm vợ lẽ. Kệ, muốn sao cũng được, chuyện này rất thường xảy ra đối với các gia đình giàu có ở ngoài Bắc thời xưa khi người được cưới trước không phải là con nhà khá giả. Hơn nữa mẹ của Thế Lữ buôn bán ở Hải Phòng nuôi hai con trai (lúc này bà chưa sinh cô con gái út) , ít còn thì giờ về Lạng Sơn thăm gia đình nhà chồng nên không quá để ý đến chuyện mình là người được cưới hỏi trước mà phải làm vợ lẽ.
    Khi Thế Lữ được 3 tháng tuổi, bà nội lại ra một lệnh khá đặc biệt: “Đứa cháu lớn (anh của thế Lữ) hay ốm đau thì cho ở Hải Phòng với mẹ cũng được; còn đứa nhỏ (tứcThế Lữ) mạnh khoẻ, bụ bẫm thì phải đem nó về Lạng Sơn sống với bà nội, cha và “mợ cả” (vợ mới của cha)”.

    Error! Filename not specified.

    Phải rời xa mẹ ruột từ lúc còn bế ẵm, lớn lên, mỗi năm chỉ được gặp mẹ một đôi lần, Thế Lữ cho biết cậu rất nhớ mẹ. Mãi đến năm cậu bé 10 tuổi, bà nội mất, rồi cậu anh ruột (11 tuổi) cũng mất, Thế Lữ mới được đưa về Hải Phòng sông với mẹ ruột tại cửa hàng vải. Tuy nhiên, Thế Lữ cũng nói rằng chính do sống ở xứ Lạng từ nhỏ cho tới năm 10 tuổi, cảnh vật thiên nhiên cũng như các câu chuyện “đường rừng”, ma quái, kinh dị, có thể là những chuyện tưởng tượng của đồng bào thiểu số mà cậu được nghe kể lại đã ăn sâu vào tâm trí cậu, khiến cậu có nguồn tư liệu dồi dào khi viết những cuốn truyện“đường rừng” rất được độc giả ửng hộ. Năm ấy Thế Lữ 23 tuổi và đã là một nhà văn, nhà thơ cốt cán trong Tự Lực Văn Đoàn.

    Cuộc đời
    Thế Lữ học chữ Nho do bà nội bắt phải học khi lên 8 tuổi ở Lạng Sơn; học chữ quốc ngữ lúc hơn 10 tuổi sau khi được trở về Hải Phòng ở với mẹ ruột. Tại Hải Phòng, cậu học tư với cha của Vũ Đình Quý – đứa bạn thân đầu tiên của cậu tại đất Cảng. Ít lâu sau, mẹ xin cho cậu vào lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École communale Française et Vietnammiene ) mới mở ở Ngõ Nghè. Năm 1923, 16 tuổi, cậu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược (Certificat d’études en Langue Française, thường gọi là bằng “Xéc”, tương đương với bằng Tiểu học sau này) dành cho các học sinh từ 12 tới 16 tuổi. Đậu xong bằng “Xéc”, cậu ốm một trận rất nặng tưởng chết, phải nghỉ học mất một năm. Năm sau, khỏi bệnh,17 tuổi, cậu được mẹ hỏi cưới cô Nguyễn Thị Khương, gốc ở Nam Định, cũng buôn bán hàng vải tại Hải Phòng, lớn hơn cậu 2 tuổi. Mẹ thấy cô Khương xinh xắn, nhanh nhẹn, cũng buôn bán vải, nhất là cũng theo Thiên chúa giáo như gia đình mình nên hỏi cưới cho con trai vậy thôi chứ sự thực giữa Thế Lữ với cô Khương không quen biết gì cả. Điều này không quan trọng trong thời đại của Thế Lữ. Nhiều cô dâu chú rể mãi đên lúc cưới mới biết mặt nhau, nhưng sau khi thành vợ thành chồng, họ rất yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau trọn đời.

    Năm 1925, Thế Lữ 18 tuổi, học Cao đẳng Tiểu học (tức Trung học ngày nay), gọi là bậc Thành Chung, 4 năm, sau đó sẽ thi lấy bằng Thành Chung thường gọi là bằng Diplôme. Nếu đậu, đã có thể xin đi làm, nhưng chỉ học được 3 năm thì Thế Lữ bỏ. Năm sau, cậu lên Hà Nội, với chứng chỉ đã học hết năm thứ ba ban Thành chung, cậu thi đậu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng cũng chỉ học được một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư Pháp và ban giám đốc nhà trường. Trong thời gian ở trường Cao đẳng Mỹ thuật, Thế Lữ chơi thân với các bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc; ngoài ra ông cũng chơi thân với các nhà văn, nhà thơ như Vũ Đình Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập Ngôn…, và cùng nhau lập một Hội quán Văn học (Salon littéraire), chuyên thảo luận về văn chương.

    Làm nghề viết văn
    Thời gian này, Thế Lữ bắt đầu viết văn với những truyện ghi lại từ những gì mình đã được nghe kể khi ở Lạng Sơn. Được nhà thơ Vũ Đình Liên (tác giả bài thơ Ông Đồ) khuyến khích, Thế Lữ gửi các tác phẩm đầu tay của mình cho Nhà xuất bản Tân Dân,nhưng ngoài bút hiệu Thế Lữ ông còn ký thêm bút hiệu tưởng tượng là “Đào Thị Tố” để thu hút sự chú ý của nhà xuất bản. Hai cuốn “Một truyện báo thù ghê gớm” và “Tiếng hú hồn của mụ Ké” rất được ông Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân khen ngợi và cho in ra. Điều này càng khích lệ Thế Lữ từ bỏ con đường hội họa để bước hẳn sang địa hạt văn chương. Bút danh “Thế Lữ” của ông ngoài chuyện nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ” thì theo ông, còn có nghĩa là “người lữ khách lang thang trong trần thế”, rất phù hợp với quan niệm sống của ông.

    Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn
    Sống tại Hà Nội, Thế Lữ làm người sửa bản in (correcteur, thường gọi là “thầy cò”) cho báo Volonté Indochinoise (tức báo “Ý Nguyện Của Đông Dương”) và thường đi làm qua Vườn bách thú Hà Nội, do đó ông làm bài thơ "Nhớ Rừng" nổi tiếng, nói lên tâm sự của mình:
    Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
    Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
    Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
    Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm…
    Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
    Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
    Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
    Với cặp báo chuồng bên vô tư lự….” ..vv..

    Sau khi nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mua lại tờ Phong hóa của Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân và ra bộ mới vào tháng 9 năm 1932, Thế Lữ có gửi bài. Bài thơ đầu tiên của Thế Lữ đăng trên bao Phong hóa bộ mới là “Con người vơ vẩn”, số Tết năm 1933. Sau đó, khi đến tòa soạn báo Phong hóa lần đầu tiên để lãnh nhuận bút, ông đọc những bài thơ mình đã sáng tác cho mọi người nghe và được nhà văn Khái Hưng khen ngợi là “Lamartine của Việt Nam”. Bên cạnh đó, nhà văn Nhất Linh cũng đặc biệt chú ý đến những truyện dài “Một đêm trăng”, “Vàng và máu” và cho rằng Thế Lữ là một cây bút mới có nhiều triển vọng, “Phải mời bằng được vào cộng tác với báo Phong Hoá, chắc chắn điều đó cũngkhông khó”. Chẳng bao lâu sau, Thế Lữ được mời làm việc cho báo Phong hóa, đồng thời Nhất Linh cũng có bài viết đề cao Thế Lữ cũng như thơ văn của ông. Đoạn trên đây cho chúng ta thấy Nhất Linh và Khái Hưng là những người tôn trọng tài năng như thế nào.

    Tháng 3 năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Tự Lực Văn Đoàn chủ trương lên án tư tưởng phong kiến, đả kích các thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội bằng cách châm biếm, hài hước, đồng thời đổi mới quan niệm sáng tác, xây dựng một nền văn chương và ngôn ngữ mới hoàn toàn Việt Nam. Thế Lữ rất tán đồng quan điểm này. Trong suốt 10 năm hoạt động văn học, ông gắn bó chặt chẽ với Tự Lực Văn Đoàn và nói: “Anh em đối xử với nhau như bát nước đầy. Nếu không có Tự Lực Văn Đoàn thì đã không có Thế Lữ”.

    Tháng 9 năm 1936, báo Phong hóa bị đóng cửa do động chạm tới Kinh lược xứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải và Tổng đốc Hà Nội Lê Hoan. Nhất Linh bèn ra tờ Ngày Nay, tôn chỉ cũng giống như tờ Phong hoá. Thế Lữ với bút hiệu Lê Ta giữ các tiết mục: “Điểm báo”, “Điểm sách”, “Tin thơ”, “Tin văn vắn”, “Tin tức…mình” … Ngoài ra, ông cũng viết các bài bình luận ký tên Thế Lữ, phân tích về các vấn đề văn học nghệ thuật và làm giám khảo cho tất cả 3 cuộc thi của Tự Lực Văn Đoàn trong các năm 1935, 1937, 1939,góp phần khẳng định tài năng của các tác giả trúng giải.. Ông là một “kiện tướng” hết sức xông xáo của Tự Lực Văn Đoàn.

    Tài năng đa dạng: Thơ, Nhạc, và Kịch
    Ngoài sự nghiệp văn chương, nhà thơ Thế Lữ còn là một nhân vật lừng lẫy danh tiếng trong đời sống kịch nghệ. Không chỉ góp phần hình thành Thơ mới, ông còn đặt nền móng cho nền sân khấu Việt Nam hiện đại. (Thời trước, kịch là kịch thơ, kể từ Thế Lữ trở đi mới có thoại kịch, tức bây giờ gọi là kịch nói, như các ban kịch nói Kim Cương, Thẩm Thuý Hằng, Vũ Đức Duy..vv.. thời VNCH chẳng hạn),và ông cũng là tác giả phần lời tiếng Việt của ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” được hát suốt từ đó đến nay.

    Năm 1935, tập “Mấy vần thơ” của ông xuất bản, góp phần cổ võ mạnh mẽ cho phong trào Thơ mới. Trong bài thơ “Cây đàn muôn điệu”, ông tâm sự:

    Tôi chỉ là một khách tình si
    Ham vẻ đẹp có muôn màu muôn vẻ
    Mượn cây bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
    Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”…

    Trong bài thơ “Giây phút chạnh lòng” cảm đề truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,ông viết thay lời nhân vật Loan nói với người mình yêu tên Dũng nhưng hai người không lấy được nhau vì nhà Loan quá nghèo mà gia dình Dũng quá giàu, bà Phán mẹ Dũng lại quá khắc nghiệt, khinh bỉ người nghèo. Khi Dũng bỏ nhà ra đi hiến mình cho lý tưởng, Loan nói cứng nhưng trong lòng khắc khoải khôn nguôi:

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi
    Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
    Đã quyết không mong sum họp mãi
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
    Non nước đang chờ gót lãng du
    Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
    Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
    Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ”…

    Về nhạc, năm 1944, khi cùng đoàn kịch Tinh Hoa của mình đi lưu diễn tại Hội An tỉnh Quảng Nam mà ông vừa là chủ gánh, vừa là người viết kịch bản, vừa là đạo diễn kiêmdiễn viên nòng cốt trong đoàn, Thế Lữ tình cờ được nghe một bản nhạc có âm điệu rất hay của nhạc sĩ La Hối (1920- 1945, người Việt gốc Hoa) với phần lời bằng tiếng Hoa của tác giả Diệp Truyền Hoa. Lập tức ông tìm gặp nhạc sĩ La Hối (lúc ấy mới 24 tuổi), đề nghị chính mình sẽ viết thêm một bản lời Việt. Nhạc sĩ La Hối đã biết tiếng Thế Lữ nên rất lấy làm hân hạnh, và sau đó, chỉ một đêm, bản “Xuân Và Tuổi Trẻ” tiếng Việt ra đời:

    "Ngày thắm tươi bên đời xuân mới
    Lòng đắm say bao nguồn vui sống
    Xuân về với ngàn hoa tươi sáng
    Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng."

    Năm sau (1945), người nhạc sĩ trẻ tuổi gốc Hoa, do lòng yêu nước, cùng các bạn thân ở Hội An tổ chức một hội đoàn chống Nhật, dần dần lan rộng khắp Quảng Nam nên bị hiến binh Nhật vây bắt, xử bắn cùng 9 người bạn, nay 10 nấm mộ vẫncòn ở Hội An nhưng bản nhạc “Xuân Và Tuổi Trẻ” do Thế Lữ đặt tên và viết lời Việt vẫn được mọi người hát cho đến bây giờ, nhất là trong các dịp xuân về. Thế Lữ chơi đàn guitare, thổi sáo và hát rất hay. Ông đã từng tổ chức một đêm ca nhạc kịch tại Nhà Hát Lớn Hà Hội, gồm toàn các nhà văn, nhà thơ và các cộng tác viên của Tự Lực Văn Đoàn biểu diễn, do chính ông đạo diễn và xếp đặt chương trình. Đêm ca nhạc kịch thành công mỹ mãn, đối với độc giả của báo Ngày Naycàng thêm thân thiết.

    II. Người vợ đáng nể của Thế Lữ
    Như phần trên đã nói, người vợ đầu tiên của nhà thơ Thế Lữ là cô gái ở Nam Địnhnhưng buôn bán hàng vải ở Hải Phòng, tên là Nguyễn Thị Khương, lớn hơn Thế Lữ 2 tuổi, do mẹ cưới cho chứ chưa từng quen biết Thế Lữ. Bà Khương sinh cho Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở Hải Phòng buôn bán, thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy các con để Thế Lữ được thỏa sức bình sinh phô diễn tài nghệ ở Hà Nội. Tuy “chỉ là một khách tình si” nhưng Thế Lữ cũng nhận thức được những vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với bà mẹ chồng quá khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng do mẹ đã gặp nhiều khó khăn khi làm dâu bà nội ở Lạng Sơn với những uất ức không nói ra được, nên bây giờ bà cũng khó lại với con dâu như cái “nợ đồng lần” vậy thôi.

    Để cải thiện mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn, mổ xẻ những vướng mắc trong cái “nợ đồng lần” đó và ký tên khác hoàn toàn xa lạ, coi như của độc giả rồi đọc cho mẹ nghe. Không ngờ chỉ mới nghe qua một đoạn, bà mẹ đã cầm cái ống nhổ đựng quết trầu dằn mạnh xuống mặt bàn: “À, thế ra anh muốn dạy tôi đấy phải không? Ai nuôi anh ăn học từ năm 10 tuổi? Ai chăm sóc anh suốt một năm trời bệnh nặng tưởng chết, để rồi bây giờ anh dạy lại tôi! …”. Thế Lữ sợ mẹ giận, chống chế rằng đấy là truyện do độc giả viết. “Muốn do ai viết cũng là nói tôi. Anh đọc cho tôi nghe tức là muốn khuyên tôi đừng khó khăn với vợ anh nữa chứ gì! Tôi thừa hiểu cái thâm ý của anh…”. Thế Lữ bèn xin lỗi mẹ rồi hôm sau trở về Hà Nội, bao nhiêu tai ương vợ lại tiếp tục gánh chịu.

    Thế Lữ có người yêu
    Những ngày mê mải với việc dựng kịch, Thế Lữ đã gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu tên là Phạm Thị Nghĩa. Cô sinh năm 1913, kém Thế Lữ 6 tuổi, con gái quan tuần phủ Phạm Đình Mẫn ở Hà Đông, cô ruột của các ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Phạm Thị Nghĩa học trường Pháp, năm 20 tuổi là giáo viên trường tư thục Victor Hugo nhưng lại mê hát chèo và diễn kịch. Gia đình không chấp nhận“xướng ca vô loài”, nên “cô giáo” Phạm Thị Nghĩa chỉ tập kịch và tập hát cheo do bạn bè dạy. Cô rất có năng khiếu về hai bộ môn này và rất hâm mộ tài năng của Thế Lữ, nên thường đi xem các vở thoại kịch rất gần với kiểu thoại kịch của Pháp, do Thế Lữ đóng hoặc dàn dựng, rồi tự ý làm quen với Thế Lữ.

    Nhận ra Phạm Thị Nghĩa tuy là giáo viên trường Pháp, chuyên nói tiếng Pháp nhưng lại có tài diễn xuất và hát chèo tiếng Việt, vì vậy khi đưa vở kịch “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ lên sân khấu tại Hải Phòng, thiếu vai chính phù hợp, Thế Lữ bí mật cho người về Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Mão. Dù diễn ở Hải Phòng nhưng cô Nghĩa cũng sợ gia đình phát hiện nên lấy biệt danh là “Song Kim”, coi như cả mình lẫn Thế Lữ đều là… hai cục vàng rất có giá trị. Vở kịch thành công mỹ mãn, trình diễn nhiều đêm liền, Song Kim bỏ nhà, bỏ cả nghề dạy học đi theo tiếng gọi của tình yêu và dần trở thành một diễn viên gạo cội trong đoàn kịch Tinh Hoa của Thế Lữ. Họ kết duyên với nhau. Đó là cặp nghệ sĩ rất nổi tiếng và đẹp đôi mặc dầu "chàng" hơn nàng 6 tuổi và đã có vợ con.

    Error! Filename not specified.

    Ở Hải Phòng, bà Khương biết chuyện, buồn lắm nhưng cố chịu đựng, không tỏ thái độ ghen tuông. Bà không coi Song Kim là “vợ hai” của chồng, vì theo giáo lý Công giáo, đàn ông chỉ có một vợ, bà tin rằng Thế Lữ là người Công giáo, được bà nội huấn luyện từ nhỏ cho mãi tới năm 10 tuổi, rồi mẹ ruột lại dạy tiếp, sẽ có một ngày ông trở lại với mình. Di cư vào Nam, nuôi 2 con trai học tới tiến sĩ và người con gái trở thành một nhà doanh nghiệp.

    Năm 1954, Thế Lữ đã đưa người con trai cả là Nguyễn Đình Nghi đi theo mìnhcùng Song Kim lên Việt Bắc từ năm 1945 và sau này Nguyễn Đình Nghi cũng trở thành một đạo diễn sân khấu nổi tiếng. Hiệp định Genève diễn ra. Mặc dầu Thế Lữ và Song Kim ở lại Hà Nội nhưng bà Khương quyết định dẫn mẹ chồng và 3 người con di cư vào Nam. Tại Sài Gòn, bà vẫn sống bằng cách mở một tiệm bán vải để nuôi các con ăn học. Khi mẹ chồng mất, bà làm đám tang “hoành tráng” không khác gì có mặt Thế Lữ ở nhà.

    Thời gian qua đi, biến cố 1975 xảy ra, miền Nam sụp đổ. Ở ngoài Bắc, Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim không có con, bà đối xử với đạo diễn Nguyễn Đình Nghi như con ruột và coi các con của vợ chồng Nguyễn Đình Nghi như cháu nội. Trong khi đó, ở trong Nam, hai người con trai của bà Khương là Nguyễn Đình Học và Nguyễn Đình Tùng đã lần lượt thi đậu Tiến Sĩ và trở thành giảng viên đại học, còn người con gái tên Nguyễn Quỳnh Tâm đã có gia đình. Năm 1977, mặc dầu là con người phiêu lãng và đã luống tuổi nhưng Thế Lữ vẫn dành sự quan tâm tới vợ con. Ông thương thảo với Song Kim để dọn vào Sài Gòn còn bà thì vẫn ở lại Hà Nội.

    Hai vợ chồng già gặp nhau, vẫn vui vẻ sau bao nhiêu năm xa cách. Ông sống chung với bà từ cuối năm 1977 tại căn nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ) quận 3 SàiGòn và qua đời vào ngày 3/6/1989, thọ 82 tuổi. Như vậy ông bà “tái hồi Kim Trọng” gần 12 năm đúng như bà suy nghĩ: dù phiêu bạt đến mấy,cuối cùng là ông sẽ trở lại với bà. Sau khi ông mất, hai người con trai của bà là Nguyễn Đình Học và Nguyễn Đình Tùng đem vợ con vượt biên sang Mỹ năm 1990, hiện nay đang ở bên Mỹ. Còn người con gái là Nguyễn Quỳnh Tâm thì không vượt biên, sau thời kỳ mở cửa, sẵn có gia tài,tiền bạc của mẹ để cho, vợ chồng tiếp tục làm ăn, buôn bán, trở thành một nhà doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu vải vóc có tiếng tại Sài Gòn.

    Bà Song Kim sinh năm 1913, mất năm 2008 tại Hà Nội, thọ 95 tuổi. Cả bà và Thế Lữ đều được phong tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân, được Giải thưởng Hồ Chí Minh nhưng đều không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi vì bà là con gái quan tuần phủ thời Pháp, còn Thế Lữ là người Công giáo, không chịu bỏ đạo mặc dầu ông rất bận, ít khi đi lễ nhà thờ.

    Đoàn Dự.
    *****

    Tài liệu hiếm quý. Tôi xin phép bổ sung, sửa đổi vài chi tiết nhỏ.
    - khoảng 1940, ông Thế Lữ và bà Song Kim về ở đường Láng.. Lúc đó, đường Láng chỉ có hai gia đình, một chính là gia đình của cụ Tú Mỡ. Cụ chính là người  rủ ông Thế Lữ về đó ở..
    - ngươi con thứ, Nguyễn Đình Học (tôi lại nhớ là Nguyễn Thế Học) đúng là tiến sĩ Toán, nhưng anh học tiến sĩ ở Bỉ. Xong tiến sĩ, anh có đi Phi Châu, hình như xứ Congo, dạy học vài năm rồi trở về Bỉ, ở thủ đô Bruxelles. Thới đó, chung quanh 1975, tôi thỉnh thoảng có sang Bỉ thăm bè bạn, và hay đến nhà anh chị Học chơi, đánh mạc chược. Chị Học, vốn là cô giáo Toán ở trường Gia Long, nhưng theo chồng sang Bỉ, hình như thôi dạy. Bạn bè tôi bên Bỉ kháo nhau là chị Học vốn còn giỏi Toán hơn chồng, nhưng phận nữ nhi, chịu nâng khăn sửa túi cho chồng, âu cũng là phong tục An Nam ta. 
    TB. Tôi nghe nói, anh Học đã mất lâu rồi, chị Học dọn nhà sang Mỹ. Mấy năm gần đây, chị cùng một số bạn hữu sưu tập toàn bộ Phong Hoá - Ngày Nay, số hoá và mang về VN tặng cho một trường ĐH ở SG, để phổ biến trong giới sinh viên làm tài liệu nghiên cứu. Tôi nghe nói, cho đến nay tài liệu đồ sộ đó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi...

    Lương Lê Huy



    --
    Lam Locong, B.Eng,MBA,Ph D
    Manoir Kilmarnock
    1479A rue Negabamat
    Quebec,Qc, G1T2V7
    Canada
    4186516201

    __._,_.___

    Posted by: nhung nguyen <nhung48@yahoo.com>
    Reply via web postReply to senderReply to groupStart a New TopicMessages in this topic (1)
    __________________
    To join this group, contact the Moderators.
    To Post a message, send to our group's email address.
    To Unsubscribe, send a blank message to: G.E.A.-unsubscribe@yahoogroups.com
    Yahoo! Groups
    • Privacy • Unsubscribe • Terms of Use


  • Chu Duong hchud41@yahoo.com [dd_duockhoa_vn] <dd_duockhoa_vn-noreply@yahoogroups.com>
    Đến:VPhF VPhF,nhung nguyen
    Hủy đăng ký
    CN, 19 thg 4 lúc 12:49

    Vừa xem xong....Cám ơn chị H.Nhung.
    Những cô BK, Ba BK mẹ chồng nàng dâu rất nhiều trong các câu truyện tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn .
    Cám ơn chị H.Nhung
    DC
    On Saturday, April 18, 2020, 05:00:47 PM PDT, nhung nguyen nhung48@yahoo.com [dd_duockhoa_vn] <dd_duockhoa_vn-noreply@yahoogroups.com> wrote:


     
    Mời các bạn đọc giải trí cuối tuần


    ----- Forwarded Message -----
    From: Thu Van Le
    Sent: Friday, April 17, 2020, 7:48:59 AM PDT
    Subject: Fwd: Cuộc đời và sự nghiệp của Thế Lữ, một tài liệu qúi gía

    Người vợ của nhà thơ Thế Lữ
      Đoàn Dự ghi chép

    Thưa Quý Bạn, cứ kể những chuyện vợ chồng chán ghét nhau, ly dị nhau hoặc ghen tuông, đánh đập nhau riết cũng chán và hiện nay là vấn đề đại dịch Vũ Hán, chắc chắn báo chí các nước bên ấy đăng ầm ầm, quý bạn đã biết cả rồi. Vậy nay tôi xin “đổi món ăn chơi”, kể hầu quý bạn một câu chuyện hơi lạ về người vợ của nhà thơThế Lữ. Bà này “lạ” ở chỗ chồng bồ bịch, có vợ nhỏ ngay trước mắt mà bà vẫn cố gắng chịu đựng, không ghen tuông một tí nào cả chỉ với một niềm tin duy nhất rằng chồng là người Công giáo, theo giáo lý Công giáo đàn ông chỉ có một vợ, đàn bà chỉ có một chồng, do đó cuối cùng rồi chồng sẽ trở lại với mình. Vì vậy bà vẫn yên tâm buôn bán kiếm ăn, chăm sóc bà mẹ chồng khó tính coi như mẹ ruột của mình, và nuôi dạy con cái, 2 người con trai ăn học tới Tiến sĩ ở bên Mỹ, còn người con gái thì trở thành một nhà doanh nghiệp. Đặc biệt, từ cuối năm 1977, “chàng lãng tử” Thế Lữ nay đã 70 tuổi, vào trong Nam sống với vợ con suốt 12 năm tại tiệm vải ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ, quận 3, gần toà đại sứ Miên hiện nay là văn phòng UBND Quận 3) cho tới khi ông qua đời cũng tại Sài Gòn mà hình như đa số chúng ta không biết. Đây là câu chuyện về người đàn bà đó nhưng xin mời quý bạn xem xét về nhà thơ Thế Lữ, chồng của bà trước đã.

    I.. Tiểu sử Thế Lữ
    Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, mất năm 1989 tại Sài Gòn, hưởng thọ 82 tuổi. Sau 1975, ông từ Hà Nội vào Sài Gòn (cuối năm 1977) sống với vợ con gần 12 năm ở đường Phan Đình Phùng (cũ), quận 3, Sài Gòn, cho đến khi mất . Quê quán của cha ông ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), quê mẹ ở Nam Định, nhưng sinh ra ông tại ấp Thái Hà, HàNội. Ấp Thái Hà nằm trên phần đất của 4 làng: Thịnh Quang, Nam Đồng, Khương Thượng và Yên Lãng (làng Láng), nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Gọi là “Ấp” vì đây là phần thưởng của Pháp dành cho Hoàng Cao Khải (Kinh lược sứ Bắc Kỳ, kẻ đã đàn áp phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi) như một “thực ấp” của các “đại thần” có công lao lớn thời trước. Mặc dầu Hoàng Cao Khải đã có dinh cơ tại phố Tràng Thi, Hà Nội, nhưng vẫn muốn lập cơ ngơi tại đây để sống khi về già. Ấp được Hoàng Cao Khải lập năm 1893, mang tên “Thái Hà” gồm tên làng Đông Thái và tên tỉnh Hà Tĩnh là quê quán của Hoàng Cao Khải... Những người sống ở ấp Thái Hà hàng năm đóng thuế thổ trạch cho Hoàng Cao Khải chứ không phải cho Sở Điền Địa của Pháp.

    Thế Lữ hồi còn nhỏ có một người anh lớn hơn cậu 1 tuổi (và một em gái), vì vậy cậu được cha đặt tên là Nguyễn Thứ Lễ với ngụ ý đó là con thứ. Đến năm Thế Lữ 10 tuổi, chẳng may cậu anh trai (11 tuổi) bị bệnh mất, cha bèn làm giấy khai sinh khác, đặt tên mới cho Thế Lữ là Nguyễn Đình Lễ vì họ Nguyễn Đình là một họ lớn ở làng Phù Đổng, không nên để người con trai duy nhất còn lại trong gia đình là “con thứ”. Do đó, Thế Lữ có 2 giấy khai sinh: Nguyễn Thứ Lễ và Nguyễn Đình Lễ. (Thời Pháp thuộc, khai sinh tại làng rất dễ, chỉ cần nói với “ông ký” giữ sổ sách làng vài tiếng là được, hơn nữa cha của Thế Lữ lại là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn – Hà Nội, gia đình khá giả, thỉnh thoảng ghé về quê chơi, ai cũng vị nể. Như vậy, tài liệu nào nói Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ hay Nguyễn Đình Lễ đều đúng. Sau này, tất cả các con của Thế Lữ đều mang họ Nguyễn Đình, như nhà đạo diễn sân khấu danh tiếng Nguyễn Đình Nghi tại Hà Nội chẳng hạn.

    Tuy nhiên, xem ra Thế Lữ thích cái tên Nguyễn Thứ Lễ hơn tên Nguyễn Đình Lễ. Bởi vậy khi viết văn, làm thơ, hoạt động kịch nghệ, ông đều lấy bút hiệu là “Thế Lữ”, tức nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ”. Ngoài ra, khi viết văn vui trên báo Phong Hoá và sau đó là báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương mà ông là một trong 6 thành viên cốt cán, Thế Lữ còn ký tên là “Lê Ta” với ý nghĩa: Chữ “ta”trong tiếng Việt, theo Hán tự là “ngã”; mà “ngã” theo tiếng Việt lại còn có nghĩa là dấu ngã. Bút danh “Lê Ta” tức chữ “Lê” có dấu ngã”, đó là chữ “Lễ”, tên thật của ông. Trên báo Ngày Nay số Xuân năm 1937, Thế Lữ đùa nghịch đưa ra câu nói vui: “Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ: một quả lê tây, một lê ta”, độc giả ai cũng tức cười và phục tài biến báo của ông.

    Như trên đã nói, cha của Thế Lữ là sếp ga xe lửa, trong thời Pháp thuộc rất có vai vế và có “ngoại tài” (tiền bạc ngoài lương bổng) nên gia đình rất khá giả. Tuy nhiên, mẹ của Thế Lữ buôn bán nhỏ, không giàu có gì nên gia đình bên nội không bằng lòng, song bà nội phải chiều ý con trai, tổ chức cho hai người một đám cưới nho nhỏ tại Hải Phòng, nơi cô dâu buôn bán ở đây. Tuy nhiên, ít lâu sau, bà nội lại cưới cho cha của Thế Lữ một cô gái con nhà giàu ở Lạng Sơn và cho cô này làm vợ cả, còn mẹ của Thế Lữ thì làm vợ lẽ. Kệ, muốn sao cũng được, chuyện này rất thường xảy ra đối với các gia đình giàu có ở ngoài Bắc thời xưa khi người được cưới trước không phải là con nhà khá giả. Hơn nữa mẹ của Thế Lữ buôn bán ở Hải Phòng nuôi hai con trai (lúc này bà chưa sinh cô con gái út) , ít còn thì giờ về Lạng Sơn thăm gia đình nhà chồng nên không quá để ý đến chuyện mình là người được cưới hỏi trước mà phải làm vợ lẽ.
    Khi Thế Lữ được 3 tháng tuổi, bà nội lại ra một lệnh khá đặc biệt: “Đứa cháu lớn (anh của thế Lữ) hay ốm đau thì cho ở Hải Phòng với mẹ cũng được; còn đứa nhỏ (tứcThế Lữ) mạnh khoẻ, bụ bẫm thì phải đem nó về Lạng Sơn sống với bà nội, cha và “mợ cả” (vợ mới của cha)”.

    Error! Filename not specified.

    Phải rời xa mẹ ruột từ lúc còn bế ẵm, lớn lên, mỗi năm chỉ được gặp mẹ một đôi lần, Thế Lữ cho biết cậu rất nhớ mẹ. Mãi đến năm cậu bé 10 tuổi, bà nội mất, rồi cậu anh ruột (11 tuổi) cũng mất, Thế Lữ mới được đưa về Hải Phòng sông với mẹ ruột tại cửa hàng vải. Tuy nhiên, Thế Lữ cũng nói rằng chính do sống ở xứ Lạng từ nhỏ cho tới năm 10 tuổi, cảnh vật thiên nhiên cũng như các câu chuyện “đường rừng”, ma quái, kinh dị, có thể là những chuyện tưởng tượng của đồng bào thiểu số mà cậu được nghe kể lại đã ăn sâu vào tâm trí cậu, khiến cậu có nguồn tư liệu dồi dào khi viết những cuốn truyện“đường rừng” rất được độc giả ửng hộ. Năm ấy Thế Lữ 23 tuổi và đã là một nhà văn, nhà thơ cốt cán trong Tự Lực Văn Đoàn.

    Cuộc đời
    Thế Lữ học chữ Nho do bà nội bắt phải học khi lên 8 tuổi ở Lạng Sơn; học chữ quốc ngữ lúc hơn 10 tuổi sau khi được trở về Hải Phòng ở với mẹ ruột. Tại Hải Phòng, cậu học tư với cha của Vũ Đình Quý – đứa bạn thân đầu tiên của cậu tại đất Cảng. Ít lâu sau, mẹ xin cho cậu vào lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (École communale Française et Vietnammiene ) mới mở ở Ngõ Nghè. Năm 1923, 16 tuổi, cậu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược (Certificat d’études en Langue Française, thường gọi là bằng “Xéc”, tương đương với bằng Tiểu học sau này) dành cho các học sinh từ 12 tới 16 tuổi. Đậu xong bằng “Xéc”, cậu ốm một trận rất nặng tưởng chết, phải nghỉ học mất một năm. Năm sau, khỏi bệnh,17 tuổi, cậu được mẹ hỏi cưới cô Nguyễn Thị Khương, gốc ở Nam Định, cũng buôn bán hàng vải tại Hải Phòng, lớn hơn cậu 2 tuổi. Mẹ thấy cô Khương xinh xắn, nhanh nhẹn, cũng buôn bán vải, nhất là cũng theo Thiên chúa giáo như gia đình mình nên hỏi cưới cho con trai vậy thôi chứ sự thực giữa Thế Lữ với cô Khương không quen biết gì cả. Điều này không quan trọng trong thời đại của Thế Lữ. Nhiều cô dâu chú rể mãi đên lúc cưới mới biết mặt nhau, nhưng sau khi thành vợ thành chồng, họ rất yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau trọn đời.

    Năm 1925, Thế Lữ 18 tuổi, học Cao đẳng Tiểu học (tức Trung học ngày nay), gọi là bậc Thành Chung, 4 năm, sau đó sẽ thi lấy bằng Thành Chung thường gọi là bằng Diplôme. Nếu đậu, đã có thể xin đi làm, nhưng chỉ học được 3 năm thì Thế Lữ bỏ. Năm sau, cậu lên Hà Nội, với chứng chỉ đã học hết năm thứ ba ban Thành chung, cậu thi đậu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng cũng chỉ học được một năm rồi lại bỏ do bất mãn với một giáo sư Pháp và ban giám đốc nhà trường. Trong thời gian ở trường Cao đẳng Mỹ thuật, Thế Lữ chơi thân với các bạn như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc; ngoài ra ông cũng chơi thân với các nhà văn, nhà thơ như Vũ Đình Liên, Ngô Bích San, Hoàng Lập Ngôn…, và cùng nhau lập một Hội quán Văn học (Salon littéraire), chuyên thảo luận về văn chương.

    Làm nghề viết văn
    Thời gian này, Thế Lữ bắt đầu viết văn với những truyện ghi lại từ những gì mình đã được nghe kể khi ở Lạng Sơn. Được nhà thơ Vũ Đình Liên (tác giả bài thơ Ông Đồ) khuyến khích, Thế Lữ gửi các tác phẩm đầu tay của mình cho Nhà xuất bản Tân Dân,nhưng ngoài bút hiệu Thế Lữ ông còn ký thêm bút hiệu tưởng tượng là “Đào Thị Tố” để thu hút sự chú ý của nhà xuất bản. Hai cuốn “Một truyện báo thù ghê gớm” và “Tiếng hú hồn của mụ Ké” rất được ông Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân khen ngợi và cho in ra. Điều này càng khích lệ Thế Lữ từ bỏ con đường hội họa để bước hẳn sang địa hạt văn chương. Bút danh “Thế Lữ” của ông ngoài chuyện nói lái từ hai tiếng “Thứ Lễ” thì theo ông, còn có nghĩa là “người lữ khách lang thang trong trần thế”, rất phù hợp với quan niệm sống của ông.

    Hoạt động văn học và Tự Lực văn đoàn
    Sống tại Hà Nội, Thế Lữ làm người sửa bản in (correcteur, thường gọi là “thầy cò”) cho báo Volonté Indochinoise (tức báo “Ý Nguyện Của Đông Dương”) và thường đi làm qua Vườn bách thú Hà Nội, do đó ông làm bài thơ "Nhớ Rừng" nổi tiếng, nói lên tâm sự của mình:
    Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
    Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.
    Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
    Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm…
    Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
    Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
    Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
    Với cặp báo chuồng bên vô tư lự….” ..vv..

    Sau khi nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam mua lại tờ Phong hóa của Vũ Đình Long chủ nhà xuất bản Tân Dân và ra bộ mới vào tháng 9 năm 1932, Thế Lữ có gửi bài. Bài thơ đầu tiên của Thế Lữ đăng trên bao Phong hóa bộ mới là “Con người vơ vẩn”, số Tết năm 1933. Sau đó, khi đến tòa soạn báo Phong hóa lần đầu tiên để lãnh nhuận bút, ông đọc những bài thơ mình đã sáng tác cho mọi người nghe và được nhà văn Khái Hưng khen ngợi là “Lamartine của Việt Nam”. Bên cạnh đó, nhà văn Nhất Linh cũng đặc biệt chú ý đến những truyện dài “Một đêm trăng”, “Vàng và máu” và cho rằng Thế Lữ là một cây bút mới có nhiều triển vọng, “Phải mời bằng được vào cộng tác với báo Phong Hoá, chắc chắn điều đó cũngkhông khó”. Chẳng bao lâu sau, Thế Lữ được mời làm việc cho báo Phong hóa, đồng thời Nhất Linh cũng có bài viết đề cao Thế Lữ cũng như thơ văn của ông. Đoạn trên đây cho chúng ta thấy Nhất Linh và Khái Hưng là những người tôn trọng tài năng như thế nào.

    Tháng 3 năm 1934, Tự Lực Văn Đoàn chính thức ra đời với 6 thành viên: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Tự Lực Văn Đoàn chủ trương lên án tư tưởng phong kiến, đả kích các thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội bằng cách châm biếm, hài hước, đồng thời đổi mới quan niệm sáng tác, xây dựng một nền văn chương và ngôn ngữ mới hoàn toàn Việt Nam. Thế Lữ rất tán đồng quan điểm này. Trong suốt 10 năm hoạt động văn học, ông gắn bó chặt chẽ với Tự Lực Văn Đoàn và nói: “Anh em đối xử với nhau như bát nước đầy. Nếu không có Tự Lực Văn Đoàn thì đã không có Thế Lữ”.

    Tháng 9 năm 1936, báo Phong hóa bị đóng cửa do động chạm tới Kinh lược xứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải và Tổng đốc Hà Nội Lê Hoan. Nhất Linh bèn ra tờ Ngày Nay, tôn chỉ cũng giống như tờ Phong hoá. Thế Lữ với bút hiệu Lê Ta giữ các tiết mục: “Điểm báo”, “Điểm sách”, “Tin thơ”, “Tin văn vắn”, “Tin tức…mình” … Ngoài ra, ông cũng viết các bài bình luận ký tên Thế Lữ, phân tích về các vấn đề văn học nghệ thuật và làm giám khảo cho tất cả 3 cuộc thi của Tự Lực Văn Đoàn trong các năm 1935, 1937, 1939,góp phần khẳng định tài năng của các tác giả trúng giải.. Ông là một “kiện tướng” hết sức xông xáo của Tự Lực Văn Đoàn.

    Tài năng đa dạng: Thơ, Nhạc, và Kịch
    Ngoài sự nghiệp văn chương, nhà thơ Thế Lữ còn là một nhân vật lừng lẫy danh tiếng trong đời sống kịch nghệ. Không chỉ góp phần hình thành Thơ mới, ông còn đặt nền móng cho nền sân khấu Việt Nam hiện đại. (Thời trước, kịch là kịch thơ, kể từ Thế Lữ trở đi mới có thoại kịch, tức bây giờ gọi là kịch nói, như các ban kịch nói Kim Cương, Thẩm Thuý Hằng, Vũ Đức Duy..vv.. thời VNCH chẳng hạn),và ông cũng là tác giả phần lời tiếng Việt của ca khúc “Xuân và tuổi trẻ” được hát suốt từ đó đến nay.

    Năm 1935, tập “Mấy vần thơ” của ông xuất bản, góp phần cổ võ mạnh mẽ cho phong trào Thơ mới. Trong bài thơ “Cây đàn muôn điệu”, ông tâm sự:

    Tôi chỉ là một khách tình si
    Ham vẻ đẹp có muôn màu muôn vẻ
    Mượn cây bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
    Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”…

    Trong bài thơ “Giây phút chạnh lòng” cảm đề truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,ông viết thay lời nhân vật Loan nói với người mình yêu tên Dũng nhưng hai người không lấy được nhau vì nhà Loan quá nghèo mà gia dình Dũng quá giàu, bà Phán mẹ Dũng lại quá khắc nghiệt, khinh bỉ người nghèo. Khi Dũng bỏ nhà ra đi hiến mình cho lý tưởng, Loan nói cứng nhưng trong lòng khắc khoải khôn nguôi:

    Anh đi đường anh, tôi đường tôi
    Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
    Đã quyết không mong sum họp mãi
    Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
    Non nước đang chờ gót lãng du
    Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
    Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
    Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ”…

    Về nhạc, năm 1944, khi cùng đoàn kịch Tinh Hoa của mình đi lưu diễn tại Hội An tỉnh Quảng Nam mà ông vừa là chủ gánh, vừa là người viết kịch bản, vừa là đạo diễn kiêmdiễn viên nòng cốt trong đoàn, Thế Lữ tình cờ được nghe một bản nhạc có âm điệu rất hay của nhạc sĩ La Hối (1920- 1945, người Việt gốc Hoa) với phần lời bằng tiếng Hoa của tác giả Diệp Truyền Hoa. Lập tức ông tìm gặp nhạc sĩ La Hối (lúc ấy mới 24 tuổi), đề nghị chính mình sẽ viết thêm một bản lời Việt. Nhạc sĩ La Hối đã biết tiếng Thế Lữ nên rất lấy làm hân hạnh, và sau đó, chỉ một đêm, bản “Xuân Và Tuổi Trẻ” tiếng Việt ra đời:

    "Ngày thắm tươi bên đời xuân mới
    Lòng đắm say bao nguồn vui sống
    Xuân về với ngàn hoa tươi sáng
    Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng."

    Năm sau (1945), người nhạc sĩ trẻ tuổi gốc Hoa, do lòng yêu nước, cùng các bạn thân ở Hội An tổ chức một hội đoàn chống Nhật, dần dần lan rộng khắp Quảng Nam nên bị hiến binh Nhật vây bắt, xử bắn cùng 9 người bạn, nay 10 nấm mộ vẫncòn ở Hội An nhưng bản nhạc “Xuân Và Tuổi Trẻ” do Thế Lữ đặt tên và viết lời Việt vẫn được mọi người hát cho đến bây giờ, nhất là trong các dịp xuân về. Thế Lữ chơi đàn guitare, thổi sáo và hát rất hay. Ông đã từng tổ chức một đêm ca nhạc kịch tại Nhà Hát Lớn Hà Hội, gồm toàn các nhà văn, nhà thơ và các cộng tác viên của Tự Lực Văn Đoàn biểu diễn, do chính ông đạo diễn và xếp đặt chương trình. Đêm ca nhạc kịch thành công mỹ mãn, đối với độc giả của báo Ngày Naycàng thêm thân thiết.

    II. Người vợ đáng nể của Thế Lữ
    Như phần trên đã nói, người vợ đầu tiên của nhà thơ Thế Lữ là cô gái ở Nam Địnhnhưng buôn bán hàng vải ở Hải Phòng, tên là Nguyễn Thị Khương, lớn hơn Thế Lữ 2 tuổi, do mẹ cưới cho chứ chưa từng quen biết Thế Lữ. Bà Khương sinh cho Thế Lữ cả thảy 4 người con, 3 trai 1 gái. Bà chấp nhận ở Hải Phòng buôn bán, thay chồng chăm sóc mẹ già và nuôi dạy các con để Thế Lữ được thỏa sức bình sinh phô diễn tài nghệ ở Hà Nội. Tuy “chỉ là một khách tình si” nhưng Thế Lữ cũng nhận thức được những vất vả mà vợ mình phải chịu đựng khi sống với bà mẹ chồng quá khó tính. Ông giải thích cho vợ hiểu rằng do mẹ đã gặp nhiều khó khăn khi làm dâu bà nội ở Lạng Sơn với những uất ức không nói ra được, nên bây giờ bà cũng khó lại với con dâu như cái “nợ đồng lần” vậy thôi.

    Để cải thiện mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, Thế Lữ viết một truyện ngắn, mổ xẻ những vướng mắc trong cái “nợ đồng lần” đó và ký tên khác hoàn toàn xa lạ, coi như của độc giả rồi đọc cho mẹ nghe. Không ngờ chỉ mới nghe qua một đoạn, bà mẹ đã cầm cái ống nhổ đựng quết trầu dằn mạnh xuống mặt bàn: “À, thế ra anh muốn dạy tôi đấy phải không? Ai nuôi anh ăn học từ năm 10 tuổi? Ai chăm sóc anh suốt một năm trời bệnh nặng tưởng chết, để rồi bây giờ anh dạy lại tôi! …”. Thế Lữ sợ mẹ giận, chống chế rằng đấy là truyện do độc giả viết. “Muốn do ai viết cũng là nói tôi. Anh đọc cho tôi nghe tức là muốn khuyên tôi đừng khó khăn với vợ anh nữa chứ gì! Tôi thừa hiểu cái thâm ý của anh…”. Thế Lữ bèn xin lỗi mẹ rồi hôm sau trở về Hà Nội, bao nhiêu tai ương vợ lại tiếp tục gánh chịu.

    Thế Lữ có người yêu
    Những ngày mê mải với việc dựng kịch, Thế Lữ đã gặp một người con gái Hà Nội đam mê sân khấu tên là Phạm Thị Nghĩa. Cô sinh năm 1913, kém Thế Lữ 6 tuổi, con gái quan tuần phủ Phạm Đình Mẫn ở Hà Đông, cô ruột của các ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng và nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Phạm Thị Nghĩa học trường Pháp, năm 20 tuổi là giáo viên trường tư thục Victor Hugo nhưng lại mê hát chèo và diễn kịch. Gia đình không chấp nhận“xướng ca vô loài”, nên “cô giáo” Phạm Thị Nghĩa chỉ tập kịch và tập hát cheo do bạn bè dạy. Cô rất có năng khiếu về hai bộ môn này và rất hâm mộ tài năng của Thế Lữ, nên thường đi xem các vở thoại kịch rất gần với kiểu thoại kịch của Pháp, do Thế Lữ đóng hoặc dàn dựng, rồi tự ý làm quen với Thế Lữ.

    Nhận ra Phạm Thị Nghĩa tuy là giáo viên trường Pháp, chuyên nói tiếng Pháp nhưng lại có tài diễn xuất và hát chèo tiếng Việt, vì vậy khi đưa vở kịch “Gái không chồng” của Đoàn Phú Tứ lên sân khấu tại Hải Phòng, thiếu vai chính phù hợp, Thế Lữ bí mật cho người về Hà Nội mời Phạm Thị Nghĩa vào vai cô Mão. Dù diễn ở Hải Phòng nhưng cô Nghĩa cũng sợ gia đình phát hiện nên lấy biệt danh là “Song Kim”, coi như cả mình lẫn Thế Lữ đều là… hai cục vàng rất có giá trị. Vở kịch thành công mỹ mãn, trình diễn nhiều đêm liền, Song Kim bỏ nhà, bỏ cả nghề dạy học đi theo tiếng gọi của tình yêu và dần trở thành một diễn viên gạo cội trong đoàn kịch Tinh Hoa của Thế Lữ. Họ kết duyên với nhau. Đó là cặp nghệ sĩ rất nổi tiếng và đẹp đôi mặc dầu "chàng" hơn nàng 6 tuổi và đã có vợ con.

    Error! Filename not specified.

    Ở Hải Phòng, bà Khương biết chuyện, buồn lắm nhưng cố chịu đựng, không tỏ thái độ ghen tuông. Bà không coi Song Kim là “vợ hai” của chồng, vì theo giáo lý Công giáo, đàn ông chỉ có một vợ, bà tin rằng Thế Lữ là người Công giáo, được bà nội huấn luyện từ nhỏ cho mãi tới năm 10 tuổi, rồi mẹ ruột lại dạy tiếp, sẽ có một ngày ông trở lại với mình. Di cư vào Nam, nuôi 2 con trai học tới tiến sĩ và người con gái trở thành một nhà doanh nghiệp.

    Năm 1954, Thế Lữ đã đưa người con trai cả là Nguyễn Đình Nghi đi theo mìnhcùng Song Kim lên Việt Bắc từ năm 1945 và sau này Nguyễn Đình Nghi cũng trở thành một đạo diễn sân khấu nổi tiếng. Hiệp định Genève diễn ra. Mặc dầu Thế Lữ và Song Kim ở lại Hà Nội nhưng bà Khương quyết định dẫn mẹ chồng và 3 người con di cư vào Nam. Tại Sài Gòn, bà vẫn sống bằng cách mở một tiệm bán vải để nuôi các con ăn học.. Khi mẹ chồng mất, bà làm đám tang “hoành tráng” không khác gì có mặt Thế Lữ ở nhà.

    Thời gian qua đi, biến cố 1975 xảy ra, miền Nam sụp đổ. Ở ngoài Bắc, Nghệ sĩ Nhân dân Song Kim không có con, bà đối xử với đạo diễn Nguyễn Đình Nghi như con ruột và coi các con của vợ chồng Nguyễn Đình Nghi như cháu nội. Trong khi đó, ở trong Nam, hai người con trai của bà Khương là Nguyễn Đình Học và Nguyễn Đình Tùng đã lần lượt thi đậu Tiến Sĩ và trở thành giảng viên đại học, còn người con gái tên Nguyễn Quỳnh Tâm đã có gia đình. Năm 1977, mặc dầu là con người phiêu lãng và đã luống tuổi nhưng Thế Lữ vẫn dành sự quan tâm tới vợ con. Ông thương thảo với Song Kim để dọn vào Sài Gòn còn bà thì vẫn ở lại Hà Nội..

    Hai vợ chồng già gặp nhau, vẫn vui vẻ sau bao nhiêu năm xa cách. Ông sống chung với bà từ cuối năm 1977 tại căn nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ) quận 3 SàiGòn và qua đời vào ngày 3/6/1989, thọ 82 tuổi. Như vậy ông bà “tái hồi Kim Trọng” gần 12 năm đúng như bà suy nghĩ: dù phiêu bạt đến mấy,cuối cùng là ông sẽ trở lại với bà. Sau khi ông mất, hai người con trai của bà là Nguyễn Đình Học và Nguyễn Đình Tùng đem vợ con vượt biên sang Mỹ năm 1990, hiện nay đang ở bên Mỹ. Còn người con gái là Nguyễn Quỳnh Tâm thì không vượt biên, sau thời kỳ mở cửa, sẵn có gia tài,tiền bạc của mẹ để cho, vợ chồng tiếp tục làm ăn, buôn bán, trở thành một nhà doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu vải vóc có tiếng tại Sài Gòn.

    Bà Song Kim sinh năm 1913, mất năm 2008 tại Hà Nội, thọ 95 tuổi. Cả bà và Thế Lữ đều được phong tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân, được Giải thưởng Hồ Chí Minh nhưng đều không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi vì bà là con gái quan tuần phủ thời Pháp, còn Thế Lữ là người Công giáo, không chịu bỏ đạo mặc dầu ông rất bận, ít khi đi lễ nhà thờ.

    Đoàn Dự.
    *****

    Tài liệu hiếm quý. Tôi xin phép bổ sung, sửa đổi vài chi tiết nhỏ.
    - khoảng 1940, ông Thế Lữ và bà Song Kim về ở đường Láng.. Lúc đó, đường Láng chỉ có hai gia đình, một chính là gia đình của cụ Tú Mỡ. Cụ chính là người  rủ ông Thế Lữ về đó ở..
    - ngươi con thứ, Nguyễn Đình Học (tôi lại nhớ là Nguyễn Thế Học) đúng là tiến sĩ Toán, nhưng anh học tiến sĩ ở Bỉ. Xong tiến sĩ, anh có đi Phi Châu, hình như xứ Congo, dạy học vài năm rồi trở về Bỉ, ở thủ đô Bruxelles. Thới đó, chung quanh 1975, tôi thỉnh thoảng có sang Bỉ thăm bè bạn, và hay đến nhà anh chị Học chơi, đánh mạc chược. Chị Học, vốn là cô giáo Toán ở trường Gia Long, nhưng theo chồng sang Bỉ, hình như thôi dạy. Bạn bè tôi bên Bỉ kháo nhau là chị Học vốn còn giỏi Toán hơn chồng, nhưng phận nữ nhi, chịu nâng khăn sửa túi cho chồng, âu cũng là phong tục An Nam ta. 
    TB. Tôi nghe nói, anh Học đã mất lâu rồi, chị Học dọn nhà sang Mỹ. Mấy năm gần đây, chị cùng một số bạn hữu sưu tập toàn bộ Phong Hoá - Ngày Nay, số hoá và mang về VN tặng cho một trường ĐH ở SG, để phổ biến trong giới sinh viên làm tài liệu nghiên cứu. Tôi nghe nói, cho đến nay tài liệu đồ sộ đó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi...

    Lương Lê Huy



    --
    Lam Locong, B.Eng,MBA,Ph D
    Manoir Kilmarnock
    1479A rue Negabamat
    Quebec,Qc, G1T2V7
    Canada
    4186516201

    __._,_.___

    Posted by: Chu Duong <hchud41@yahoo.com>
    Reply via web postReply to senderReply to groupStart a New TopicMessages in this topic (2)
    __________________
    To join this group, contact the Moderators.
    To Post a message, send to our group's email address.
    To Unsubscribe, send a blank message to: G.E.A.-unsubscribe@yahoogroups.com
    Yahoo! Groups
    • Privacy • Unsubscribe • Terms of Use