Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Kẻ Ném Đá Dấu Tay. Ai là Bọn Khủng Bố?

Kẻ Ném Đá Dấu TayAi là Bọn Khủng Bố


Bài gốc có thể có 1 số lỗi chính tả về dấu do lỗi bỏ dấu hoặc khi đánh & xếp chữ. Quý bạn đọc tự sửa để tùy nghi. TDT.



Kẻ Ném Đá Dấu TayAi là Bọn Khủng Bố

Inline image 1

*Mời đọc:


Tzipora Menache, Israeli spokeswoman: "Quý vị biết rất rõ, và những người Mỹ ngu xuẩn cũng biết rất rõ, rằng chúng ta kiểm soát chính phủ của chúng, bất luận ai ngồi trong Tòa Bạch Ốc. Như quý vị thấy, tôi biết  và quý vị biết rằng không một tổng thống Mỹ nào có thể đủ tư cách thách thức chúng ta cho dù chúng ta có làm chuyện khó tin. Chúng nó - bọn Mỹ -    có thể làm gì được chúng ta? Chúng ta kiểm soát quốc hội, chúng ta kiểm soát truyền thông, chúng ta kiểm soát kỹ nghệ giải trí, và chúng ta kiểm soát mọi thứ ở Mỹ. Ở Mỹ, bạn có thể chỉ trích Thượng Đế, nhưng bạn không thể chỉ trích Israel..."

(You know very well, and the stupid Americans know equally well, that we control their government, irrespective of who sits in the White House. You see, I know it and you know it that no American president can be in a position to challenge us even if we do the unthinkable. What can they (Americans) do to us? We control congress, we control the media, we control show biz, and we control everything in America. In America you can criticize God, but you can't criticize Israel...)

Thomas Jefferson: "Mặc dù sống rải rác, người Do Thái vẫn tạo thành một quốc gia như những người ngoại quốc trên vùng đất họ đang sống."
   (Dispersed as the Jews are, they still form one nation, foreign to the land they live in.)
Napoleon Bonaparte: "Những ác quỷ Do Thái không phát xuất từ những cá nhân, mà từ bản chất nền tảng của giống dân đó."
   (The evils of the Jews do not stem from individuals, but from the fundamental nature of this people.)
George Washington: "Người Do Thái chống lại chúng ta hữu hiệu hơn quân thù. Họ nguy hiểm gấp trăm lần cho tự do và lý tưởng mà chúng theo đuổi...."
   (The Jews work more effectively against us, than the enemy's armies. They are a hundred times more dangerous to our liberties and the great cause we are engaged in...)
- Benjamin Franklin: "Mối đe dọa là Do Thái.... Trong bất kỳ quốc gia nào mà họ định cư với số nhiều, họ đều hạ thấp đạo đức, xem thường chính trực thương mại, tự tách rời và không chịu đồng hóa.... Nếu không loại họ ra khỏi Hoa Kỳ nầy,  trong Hiến Pháp, thì không đến 200 năm nữa họ sẽ sinh sôi nẩy nở ở đây đông đảo đến độ họ sẽ đô hộ và nuốt hết cả nước và thay đổi hình thức chính phủ của chúng ta, và triệt hạ tự do của chúng ta."
   (The menace is the Jews... In whatever country Jews have settled in any great number, they have lowered its moral tone; depreciated its commercial integrity; have segregated themselves and have not been assimilated... If you do not exclude them from these United States, in their Constitution, in less than 200 years they will have swarmed here in such great numbers that they will dominate and devour the land and change our form of government, and jeopardized our liberty.)


Bài 1
Con Bạch Tuộc Do Thái đang thao túng Nước Mỹ







** Loạt bài nầy dựa trên một tài liệu bằng Anh Ngữ của James Petras, nguyên giáo sư Xã Hội Học, Đại Học Binghamton University, New York, và chủ yếu nhắc lại thủ đoạn Kissinger-Nixon, trong khuôn khổ của chủ nghĩa Judaism (Do Thái), đã áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và biến quốc gia nầy thành một chư hầu của Trung Quốc thông qua bộ máy bù nhìn mệnh danh là Đảng Cộng sản VN. Từ ngữ Zionism/Zionist trong bản tiếng Anh đại để có nghĩa là Chủ nghĩa Quốc gia Do Thái hay, ngắn gọn hơn, chủ nghĩa Do Thái. Đôi khi chúng tôi dùng lại từ nầy trong tiếng Anh, đôi khi chúng tôi dùng “chủ nghĩa Do Thái” nếu tiện, và đôi khi chúng tôi dùng từ Judaism, mặc dù Zionism và Judaism không hoàn toàn đồng nghĩa. Trong một số trường hợp, hai chữ “Do Thái” cũng dược dùng lẫn lộn cho hai chữ “Jew” và “Israel”

Ngay cả ở Hoa Kỳ hiện nay cũng ít ai ý thức đầy đủ vai trò tác hại của chủ nghĩa Do Thái vì hầu hết những cơ quan truyền thông của Mỹ đều nằm trong tay Do Thái, chưa kể những đại học hàng đầu như Yale,. Princeton, và Harvard. Thế lực của chủ nghĩa Judaism dường như tiếp tục đi lên như chỗ không người với ba hậu quả khó lường:
  1. Ngoài những chế độ chính trị ở Trung Đông, hiện chưa có một chính phủ phương tây, kể cả Mỹ, dám lên tiếng đối đầu với chủ nghĩa đó. Phong trào Occupy Wall Street nổi lên chỉ để tan biến sau đó;
  2. Hai bình phong chính của chủ nghĩa Judaism là con Đại Bàng Mỹ và thuyết Toàn Cầu Hóa, một ngụy thuyết phục vụ cho tham vọng bành trướng thị trường để các tập đoạn tài phiệt Mỹ-DoThái kiếm ăn;
  3. Từ sau Chiến Tranh VN, chủ nghĩa Judaism đã và đang cấu kết với một số chế độ cộng sản để hà hơi tiếp sức cho chế độ Tel Aviv, hy vọng chế độ nầy có đủ khả năng triệt hạ những kẻ thù của Do Thái ở Trung Đông đồng thời thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới, có hay không có sự đồng lõa của các đồng minh cộng sản.
Đối với người Việt, trong nước ng như ngoài nước, hai tiếng “Do Thái” dường như là một loại “tabou” đối với họ, không rõ đó là bạn hay thùkhông dám nói lớn vì sợ bị phạm úy” vị sờ bị chụp cho cái mủ “anti-Semite (bài Do Thái)” mặc dù đó là đầu mối đã khiến cho chúng ta tán gia bại sản, bỏ nước ra đi. Diễn đàn chúng tôi không những bài Do Thái mà còn quyết liệt lên án và kêu gọi vạch mặt con bạch tuộc Do Thái đang lộng hành tại Hoa Kỳ, Trung Đông,  Trung QuốcChúng tôi quyết liệt lên án chủ nghĩa Judaism trong chính sách ngoại giao của chính phủ Mỹ hiện nay đối với chế độ độc tài Hà Nội. Do Thái  một trong những cha đẻ của đứa con tạp chủng Cộng Sản VN. Chỉ cần nhìn thẳng mặt nhân vật thân cộng, phản chiến, và hippie đang đứng đầu Bộ Ngoại Giao Mỹ cũng thừa biết Việt Nam sẽ đi về đâu. Một số nhân vật công sản được Mỹ rước qua đây chẳng qua chỉ là những biểu hiện trá hình của chính sách cõng rắn cắn gà nhà của Washington. Tốt nhất đừng bao giờ mang cờ xanh cờ vàng ra sân bay đón tiếp những thành phần nầy để làm trò cười cho đám chính trị gia Mỹ và bọn Do TháiNhững thành phần đó có thể là đầu mối của những hệ thống tuyên vận được Mỹ dung túng (như đại học Harvard của Do Thái từng dung túng nhóm nằm vùng cộng sản với kế hoạch Viện Trần Nhân Tông trước đây – hay Viện Hồ Chí Minh trá hình).

– Đỉnh Sóng


Vài nét về James Petras, tác giả của tài liệu được chuyển ngữ bên dưới, qua lời tựa của chủ biên trang web, Les Blough.


James Petras là một trong những nhà trí thức hiếm hoi trên thế giới nhận thức được quyền hành thối nát và có mặt khắp nơi của chủ nghĩa Do Thái (Zionism) bên trong hệ thống xã hội và đời sống chinh trị nước Mỹ. Có nhiều người lớn giọng xem Do Thái như một biện minh cho cánh tả. Và những lập luận nh
ư thế đã được giới truyền thống biến thành    qui phạm và hợp thời trang, nhất là sau khi vụ Do Thái tàn sát người Palestine từ năm 2008-2009 khiến thế giới chú ý đến lịch sử 60 năm diệt chủng của họ trong vùng nầy. Điều nầy có thể hiểu được khi thấy vụ tấn công thảm sát của họ nhắm vào đoàn tàu cứu trợ nhân đạo ở Gaza vào năm 2010 đã không được nhắc đến trên báo chí và truyền thông Hoa Kỳ.


Petras không tự hạn chế vào chỉ trích và phản đối những tội ác của Israel. Ông đi sâu vào nhiều mức độ thâm nhập và thao túng cơ cấu của Do Thái đối với đời sống chính trị, kinh tế, giáo dục, và xã hội Hoa Kỳ. Những phân tích của ông phơi bày mối liên hệ giữa ký sinh và chủ thể, phơi bày toàn bộ cơ thể bị nhiễm độc. Ông lột trần lớp da, cho thấy những thủy túc đã bám sâu vào cơ thể chính trị nước Mỹ, cướp mất khả năng tự trị, phẩm chất, và sự sống của quốc gia nầy. Tiến trình phơi bày sự thực của ông gây nhức nhối cho những ai thích được ngụy trang. Phản ứng của họ là phủ nhận công trình phóng sự của ông, là tấn công với những luận điệu thô thiển, ngụy biện hay thiên kiến. Điều đó cũng áp dụng cho những người thích suy nghĩ về chính họ như là những “nhà cách mạng” trong khi nỗ lực đánh lạc hướng dư luận. Hơn một lần, những người hành động cánh tả đã tấn công trang WebAxis of Logic vì cho phổ biến những bài viết như thế nầy. Tôi (Les Blough) đã đáp ứng với một trong số những tấn công như thế bằng cách đề nghị họ nên tiếp xúc trực tiếp với tác giả, cho ông ta thông tin liên lạc. Y trả lời, “Tôi không thích bút chiến với James Petras.” Đương nhiên, y biết mình không đủ khả năng đối diện với bằng chứng đáng sợ của tác giả.


Nhưng công trình nghiên cứu của Petras rất rốc ráo: những sự kiện mà ông trình bày là không thể phản bác được, luận lý của ông chính xác. Như thế, những người phê bình Petras chỉ còn cách thể hiện một cảm thức khó chịu đối với phán xét gay gắt của tác giả hay chỉ thể hiện một nỗi sợ hãi đơn giản trước sự thật. Petras quả thực là một minh họa cho “tiếng nói của ngày nay đang gào lên trong hoang dã.” Ông là một tiên tri trong đám chúng ta không thể bị dẹp qua bên lề hay bịt miệng được. Công trình vô song của ông về điều mà ông mô tả như Zionist Power Configuration (ZPC) – hệ thống quyền lực DoThái – đã trở thành một công trình nghiên cứu nền tảng cho bất kỳ sinh viên nào học môn chính trị học Hoa Kỳ và bang giao quốc tế. Chúng tôi xem đó như là một đặc ân được phổ biến công trình của ông trên diễn đàn Axis of Logic.
Những tổ chức Do Thái hàng đầu ở Mỹ


Muốn nhận thức ảnh hưởng phi thường của chủ nghĩa Do Thái trên chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thì phải xem xét sự hiện diện của những then máy chính yếu trong những vị trí chiến lược trong chính phủ và những hoạt động của các tổ chức Do Thái liên kết với những tổ chức Do Thái chính dòng và những thần quyền tôn giáo. Có ít nhất 52 tổ chức Do Thái lớn ở Mỹ đang tích cực hoạt động để thăng tiến chính sách ngoại giao, nghị trình kinh tế và kỹ thuật của Israel ở Mỹ (Xin xem phụ bản). Thành phần hội viên nồng cốt gồm từ hàng trăm  ngàn chiến binh trong các cơ quan Do Thái Bắc Mỹ (JFNA) đến một trăm ngàn mạnh thường quân Do Thái giàu có, những nhà hoạt động và những tay môi giới quyền thế trong Ủy Ban American Israel Public Affairs Committee (AIPAC).    Ngoài ra, hàng chục hệ thống tuyên truyền, mệnh danh là những think tanks (nhóm thảo thuyết), đã dược thành lập nhờ vào số tiền đóng góp từ những tay tỉ phú Do Thái, trong đó có ViệnBrookings Institute (Haim Saban) và Viện Hudson Institute. Hàng chục những ủy ban đầu tranh chính trị (PAC) được Do Thái tài trợ đã can thiệp vào tất cả những cuộc bầu cử liên bang và địa phương, thao túng các việc bổ nhiệm và những kết quả bầu cử. Những nhà xuất bản, kể cả những cơ quan xuất bản đại học đã bị các tay cuồng tín Do Thái trắng trợn chiếm lĩnh; những ví dụ rõ nét nhất là Đại Học Yale, chuyên phổ biến những luận điệu méo mó nhại lại những phiên bản khôi hài về lịch sử Do Thái.


Trong số những dự án Do Thái được tài trợ dồi dào để thu hút giới trẻ Do Thái và biến họ thành những công cụ của chính sách ngoại giao Do Thái có “Taglit-Birthright” đã chi hơn $250 triệu dollarstrong thập niên vừa qua để gởi hơn 250 ngàn thanh niên Do Thái (tuổi từ 18-26) đến Do Thái trong mười ngày để tẩy não triệt để (nguyên văn: intense brainwashing). Những tỉ phú Do Thái và nhà nước Do Thái chi trả số tiền nầy. Những sinh viên được nhồi nhét rất kỹ về chủ nghĩa quân phiệt theo lối Do Thái và họ được các quân nhân Do Thái tháp tùng trong chiến dịch tẩy não đó; họ được du lịch miễn phí sang West Bank, Gaza hay Đông Jerusalem. Họ được kêu gọi trở thành những công dân có quốc tịch đôi và thậm chí phục vụ quân đội Do Thái. Tóm lại, chỉ có 52 tổ chức thành viên của những Chủ tịch đứng đầu các Tổ Chức Do Thái Tối Cao tại Mỹ   (Major American Jewish Organizations) nói trên là đỉnh băng sơn của hệ thống quyền lực Do Thái: cùng với những ủy ban đấu tranh chính trị PAC, những hệ thống tuyên truyền, những cơ quan báo chí đại học và truyền thông đại chúng, tất cả cho chúng ta thấy một ma trận quyền lực giúp nhận thức được ảnh hưởng ghê gớm mà chúng có trên chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ liên quan đến Do Thái và chủ nghĩa Do Thái ở Hoa Kỳ. Tất cả những hoạt động của họ trước hết và trên hết là làm sao bảo đảm được rằng chính sách Trung Đông của Mỹ sẽ phục vụ chủ nghĩa bành trướng thực dân của Do Thái ở Palestine và những mục tiêu chiến tranh ở Trung Đông, điều mà B’nai B’rth gọi một cách cường điệu là “focus on Israel and its place in the world”    (chú trọng vào Israel và địa vị của nó trên thế giới.) Trong khi đó, nhiều nhóm chuyên trách vào những lãnh vực hoạt động khác nhau. Ví dụ, nhóm “Friends of the Israel Defense Force” chủ yếu quan tâm đến khẩu hiệu của chính nó “to look after the IDF” (chăm sóc Quốc Phòng Do Thái), hay nói các khác là cung ứng tài nguyên tài chánh và tuyển dụng nhũng người tình nguyện ở Mỹ cho một quân đội ngoại quốc (một hoạt động bất hợp pháp ngoại trừ dính líu đến Do Thái). Hillel là tổng hội sinh viên của hệ thống quyền lực Do Thái có mặt trong 500 đại học và cao đẳng, tất cả các chi hệ đều ráo riết bênh vực những vụ vi phạm nhân quyền của nhà nước Do Thái và tổ chức những chuyến đi miễn phí dành cho những sinh viên tân tuyển Do Thái sang Do Thái, nơi họ sẽ được tuyên truyền ráo riết và được khuyến khích di dân hay trở thành những công dân mang quốc tịch đôi (dual citizens).
Phương pháp: Nghiên cứu quyền lực Do Thái
Có một số phương án để đo lường quyền lực của những tổ chức Do Thái nói chung và những kẻ có thế lực nắm các vị trí chiến lược trong chính phủ và kinh tế. Những phương án nầy bao gồm:
(a) Tiếng tăm
(b) tự tuyên bố
(c) vai trò hoạch định quyết định
(d) ảnh hưởng cơ cấu. Hầu hết những phương án nầy cung ứng một số gợi ý về quyền lực tiềm năng.
Ví dụ, những phóng viên báo chí thường xuyên dựa vào những nhân vật tay trong ở Washington, viên chức quốc hội và những nhân vật quyền thế để kết luận rằng AIPAC có tiếng là một trong những tổ chức vận động hành lang (lobbies) thế lực nhất ở Washington. Phương án nầy cho thấy nhu cầu phải xem xét thực nghiệm những hoạt động của AIPAC nhằm tác động lên những lá phiếu quốc hội, việc bổ nhiệm ứng cử viên, đánh bại những viên chức đương nhiệm nào không hậu thuẫn vô điều kiện đường lối của Do Thái. Nói cách khác, phân tích tiến trình hoạch định quyết định hành pháp là then chốt để đo lường quyền lực Do Thái. Nhưng đó không phải là yếu tố duy nhất. Quyền lực Do Thái là một sản phẩm của một văn mạch lịch sử, trong đó sở hữu các cơ quan truyền thông,  dồi dào của cải, và những đòn bẫy định chế về quyền lực khác dự phần định hình khung tham chiếu hoạch định quyết định. Quyền lực tích lũy theo thời gian và xuyên định chế tạo nên một thiên vị nghiêm trọng trong hệ quả chính trị có lợi cho những đặc công có tổ chức của Do Thái ở Mỹ. Một lần nữa, chỉ có sự hiện diện của người Do Thái hay những thành viên của phong trào Zionism trong những vị trí quyền thế về kinh tế, văn hóa và chính trị không thôi thì không đủ để nói với chúng ta họ sẽ xử dụng những tài nguyên của họ ra sao và liệu họ sẽ có được kết quả mà họ mong muốn hay không. Phân tích cơ chế và vị trí của những thành viên Zionist là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để hiểu quyền lực Do Thái. Người ta phải đi tiếp và phân tích nội dung của những quyết định được thực hiện và không được thực hiện liên quan đến nghị trình của những người hậu thuẫn của Do Thái đang hoạt động ở Hoa Kỳ. Năm mươi hai (52) tổ chức Do Thái hàng đầu tuyên bố công khai về những mục tiêu quyền chính của họ, việc họ theo đuổi nghị trình của Israel và sự trung thành triệt để của họ đối với chế độ Israel. Những ai phủ nhận uy quyền Do Thái đối với chính sách của Mỹ về Trung Đông là nhữngleft-Zionists (Zionists cánh tả), tức là Noam Chomsky và những đồ đệ của ông. Họ không bao giờ phân tích tiến trình pháp lý, thực thi quyết định hành pháp, những cơ cấu và hoạt động của một triệu thành viên Zionist cơ sở , việc bổ nhiệm và lý lịch của những người hoạch định chính sách then chốt vốn quyết định những chinh sách chiến lược ở Trung Đông. Thay vì thế, họ lại nhờ đến những tổng quát hóa giả tạo và chính trị mị dân, đổ thừa cho “Big Oil” và “military-industrial complex” hay “US imperialism.” Những phạm trù như thế thiếu hết nội dung thực nghiệm và văn mạch lịch sử về hoạch định chính sách liên quan đến Trung Đông.
Thiết lập quyền chính Do Thái trong chính phủ Hoa Kỳ


Muốn hiểu sự phục tùng của Mỹ đối với những chính sách chiến tranh của Do Thái ở Trung Đông, người ta phải nhìn xa hơn là vai trò của những vụ vận động hành lang áp lực lên Quốc Hội và vai trò của những ủy ban đấu tranh chính trị cũng như những tay Zionist giàu có đóng góp cho tranh cử.Một cấu tố bị nhiều người xem thường những tuyệt đối then chốt của quyền uy Do Thái đối với chính sách kinh tế, ngoại giao và quốc phòng của Mỹ là sự hiện diện của Do Thái trong những vị trí chính sách then chốt, kể cả Bộ Tài Chánh và Bộ Ngoại Giao, Ngũ Giá Đài, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Tòa Bạch Ốc. Nhờ hoạt động bên trong những vị trí hoạch định chính sách, những viên chức Do Thái đã theo đuổi một cách nhất quán những chính sách phù hợp với những chính sách quân phiệt của Israel, cố tình phá hoại và loại bỏ bất kỳ quốc gia nào cản trở việc chiếm đóng Palestine của Do Thái, sự độc quyền về nguyên tử trong vùng của họ sự bành trướng những vùng đất định cư dành riêng cho người Do Thái và, trên hết, những nỗ lực quyết liệt muốn duy trì quyền thống trị của họ ở miền Đông Ả Rập. Những người hoạch định  chính sách Do Thái trong chính phủ Mỹ thường xuyên tham khảo nhà nước Israel, phối hợp chặt chẽ với ban chỉ huy quân sự Israel (IDF), Bộ Ngoại Giao Israel, cơ quan tình báo Mossad và tuân thủ đường lối chính trị của nhà nước Do Thái. Trong hai năm qua, không một nhà hoạch định chính sách nào gốc Do Thái lên tiếng chỉ trích bất kỳ tội ác ghê tởm nào của Israel, từ tàn phá Gaza đến tàn sát đội tàu cứu trợ nhân đạo và bành trướng những khu định cư mới ở Jerusalem và West Bank. Hành xử của những viên chức Mỹ gốc do Thái nói trên tượng trưng sự trung thành kỹ lục đối với một nước ngoài, vượt xa sự phục tùng của đám tay sai Stalin và Đức Quốc Xả ở Washington trong thập niên 1930 và 1940. Những tay hoạch định chính sách gốc Do Thái trong những vị trí chiến lược lệ thuộc vào những kẻ chống lưng chính trị và làm việc chặt chẽ với những tương nhiệm của họ trong các hệ thống vận động hành lang (của AIPAC) trong Quốc Hội và trong những tổ chức Do Thái cấp địa phương và liên bang. Nhiều người trong số những nhà hoạch định chính sách gốc Do Thái lên được địa vị quyền thế thông qua chiến lược cố tình thâm nhập chính phủ để định hình chính sách nhằm thăng tiến quyền lợi của Israel lên trên quyền lợi của người dân Hoa Kỳ. Chủ nghĩa gia đình trị và bè phái có thể được giải thích là do một mức độ gắn bó nào đó với lòng trung thành thông thường đối với Tel Aviv; nhưng những cuộc vận động hành lang đắc lực của người Do Thái có thể nhằm mục tiêu tạo ra những chức vụ then chốt trong chính phủ Mỹ và bảo đảm rằng một trong số họ sẽ chiếm được chức vụ đó để theo đuổi nghị trình của Israel.
Stuart Levey: Tay hoạt động hàng đầu của Do Thái ở Mỹ


Vào năm 2004, AIPAC đã thành công trong việc áp lực chính quyền Bush phải thành lập văn phòngUndersecretary for Terrorism and Financial Intelligence (UTFI) và bổ nhiệm con gà nhà Stuart Levey, tốt nghiệp Princeton (Do Thái), vào chức vụ đó. Trước đó, nhưng đặc biệt sau khi bổ nhiệm, Levey hợp tác chặt chẽ với nhà nước Do Thái và được biết như là một thành viên Zionist cuồng tín với nghị lực vô biên và tôn sùng mù quáng nhà nước Do Thái. Bên trong khe nhìn ý thức hệ Zionisthạn hẹp của y, Levey xử dụng trí thông minh của mình cho nhiệm vụ duy nhất là biến văn phòng của y thành đường lối chính sách ngoại giao chủ yếu nhằm hoạch định chính sách của Mỹ đối với Iran. Hơn bất kỳ một viên chức chính phủ được bổ nhiệm nào khác hay bất kỳ một nhà lập pháp dân cử nào, Levey hoạch định và triển khai những chính sách ảnh hưởng sâu xa đến quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ, Liên Âu và Liên Hiệp Quốc đối với Iran. Levey đã tăng cường những chính sách trừng phạt mà Washington đã áp đặt lên Liên Âu và Hội Đồng Bảo An. Levey tổ chức toàn bộ ban tham mưu dưới sự điều khiển của y ở Bộ Tài Chánh để điều tra những chính sách mậu dịch và đầu tư của tất cả những công ty sản xuất lớn, ngân hàng, vận tải, dầu khí trên thế giới. Sau đó y bôn ba khắp Hoa Kỳ và áp lực thành công các quỹ cấp dưỡng, các cơ sở đầu tư, các công ty dầu khí và các định chế kinh tế phải giải tư khỏi bất kỳ công ty nào làm ăn với hệ thống kinh tế dân sự Iran. Về mặt quốc tế, y đe dọa trừng phạt và khai trừ những công ty bất đồng ở Âu Châu, Á Châu và Bắc Mỹ nào không chịu từ bỏ những cơ hội kinh tế. Tất cả họ đều biết Levey hành động theo lệnh của Do Thái, những dịch vụ mà Levey rất tự hào đã hoàn thành. Levey phối hợp chiến dịch của y với những lãnh tụ Zionisttrong Quốc Hội. Y đạt được đạo luật chế tài phù hợp với những chiến dịch của y. Những chính sách của y rõ ràng vi phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia, áp đặt việc thực thi xuyên quốc những quyết đinh của y chống lại một nền kinh tế dân sự. Những vi phạm của y về chủ quyền kinh tế đi song song với lời thông báo của Obama rằng những lực lượng đặc nhiệm của Mỹ sẽ hành quân bất chấp chủ quyền chính trị trên bốn lục địa. Levey hoạch định chính sách của Mỹ đồi với Iran với tất cả những ý đồ và mục tiêu nhất định. Trong mỗi giai đoạn, y thiết kế sự leo thang những biện pháp chế tài, và sau đó chuyển giao cho Tòa Bạch Ốc để cơ quan nầy đùn đẩy kế hoạch đó xuống cổ họng của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Một khi những biện pháp chế tài mới do Levey và ban tham mưu chấp thuận được lên khuôn, họ ra quân để thực thi chúng: nhận diện những kẻ vi phạm và thi hành những biện pháp trừng phạt. Bộ Tài Chánh Hoa Kỳ đã trở thành một tiền đồn của Tel Aviv. Không một tài liệu cánh tả, tự do, hay dân chủ xã hội nào soi rọi vai trò của Levey hay thậm chí soi rọi nỗi đau khổ kinh tế khủng khiếp mà tên cuồng tín Cựu Ước nầy đã dáng xuống 75 triệu công nhân dân chính và giới tiêu dùng Iran. Thực vây, cũng như những giáo sỹ Juda-Phát-Xít chuyên rao giảng một “ final solution (phát súng ân huệ)” cho những kẻ thù của Israel, Levey thông báo biện pháp “trừng phạt” mới khắc nghiệt hơn đối với nhân dân Iran. Có thể vào một thời điểm thích hợp nào đó, nhà nước Do Thái sẽ dùng tên y để đặt cho một con đường lớn ở West Bank vì những dịch vụ phi thường của y cho nhà nước kỳ thị chủng tộc nhất và báng bố thần thánh nhất nầy.

Phụ bản: 52 tổ chức Do Thái hàng đầu ở Hoa Kỳ:
1. Ameinu
2. American Friends of Likud
3. American Gathering/Federation of Jewish Holocaust Survivors
4. America-Israel Friendship League
5. American Israel Public Affairs Committee
6. American Jewish Committee
7. American Jewish Congress
8. American Jewish Joint Distribution Committee
9. American Sephardi Federation
10. American Zionist Movement
11. Americans for Peace Now
12. AMIT
13. Anti-Defamation League
14. Association of Reform Zionists of America
15. B’nai B’rith International
16. Bnai Zion
17. Central Conference of American Rabbis
18. Committee for Accuracy in Middle East Reporting in America
19. Development Corporation for Israel/State of Israel Bonds
20. Emunah of America
21. Friends of Israel Defense Forces
22. Hadassah, Women’s Zionist Organization of America
23. Hebrew Immigrant Aid Society
24. Hillel: The Foundation for Jewish Campus Life
25. Jewish Community Centers Association

26. Jewish Council for Public Affairs
27. The Jewish Federations of North America
28. Jewish Institute for National Security Affairs
29. Jewish Labor Committee
30. Jewish National Fund
31. Jewish Reconstructionist Federation
32. Jewish War Veterans of the USA
33. Jewish Women International
34. MERCAZ USA, Zionist Organization of the Conservative Movement
35. NA’AMAT USA
36. MCSK” Advocates on behalf of Jews in Russia, Ukraine, the Baltic States & Eurasia
37. National Council of Jewish Women
38. National Council of Young Israel
39. ORT America
40. Rabbinical Assembly
41. Rabbinical Council of America
42. Religious Zionists of America
43. Union for Reform Judaism
44. Union of Orthodox Jewish Congregations of America
45. United Synagogue of Conservative Judaism
46. WIZO
47. Women’s League for Conservative Judaism
48. Women of Reform Judaism
49. Workmen’s Circle
50. World ORT
51. World Zionist Executive, US

52. Zionist Organization of America




Bài 2

9/11: Israel did it
   – WikiSpooks:    https://wikispooks.com/wiki/9/11:Israel_did_it
9/11: Do Thái là thủ phạm – 
Kỳ I
** Nội dung chính của tài liệu nầy lấy từ Information Underground forumtháng 5/2009, với tựa đề "Israel did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là một trong số vài phiên bản khác nhau về đề tài nầy. – Đỉnh Sóng
  
Khi một biến cố xảy ra làm thay đổi triệt để động năng của địa chính trị toàn cầu, có một câu hỏi trên tất cả những câu hỏi khác mà câu trả lời hầu như chắc chắn sẽ nêu đích danh các thủ phạm. Câu hỏi là "Cui bono" (Ai được lợi?) Nếu những kẻ bị lên án đồng thời được xem là có cả động cơ lẫn phương tiện thì ở Hoa Kỳ người ta nói chắc chắn những kẻ đó là thủ phạm. Và biến cố 9/11 cũng thế. Những phiên bản chính thức về biến cố 9/11 hiển nhiên là vô lý, vì, cho đến nay, chỉ có hai tổ chức trên toàn thế giới có được kỹ năng, phương tiện, quyền truy cập và bảo vệ chính trị cần thiết để vừa thực hiện vụ 9/11 vừa tiến hành bao che. Hai tổ chức đó là những Cơ Quan Tình Báo – CIA của Hoa Kỳ và Mossad của Israel - cơ quan nầy được xem là có những động cơ thôi thúc nhất. Những động cơ nầy ăn khớp tuyệt vời với nghị trình của nhóm thảo thuyết bảo thủ PNAC (Project for the New American Century), với nhu cầu công khai đặt ra là phải có "một biến cố thảm khốc, và xúc tác – như một tân Trân Châu Cảng" đẻ động viên dư luận cho những cuộc chiến tranh đã hoạch định, với hệ quả là tiêu diệt những kẻ thù của Do Thái.
Ai kiểm soát Tòa Tháp Đôi

Bước thứ nhất để chuẩn bị cho những vụ tấn công 9/11 là nắm quyền kiểm soát Trung Tâm World Trade Center (WTC )Điều nầy là then chốt vì không nắm được quyền kiểm soát toàn bộ thì việc gài những chất nổ để đánh sập toà nhà sẽ gần như bất khả thi vì rủi ro bị phát hiện rất lớn.
Bốn tay đầu sỏ trong hệ thống Do Thái
Larry Silverstein – Silverstein là một thương gia Mỹ gốc Do Thái ở New York. Vào ngày 24/7/2001, Silverstein có được một hợp đồng thuê toàn bộ WTC    99 năm. Hai tòa tháp thực sự gần như chẳng đáng giá gì vì tràn ngập những amiăng, nhưng Larry "cảm thấy rất muốn có được chúng." Silverstein thường ăn điểm tâm ở nhà hàng Windows on the World (lầu 107, North Tower) mỗi sáng, nhưng y vắng mặt ở buổi điểm tâm đó vào buổi sáng 11 tháng 9. Hai người con của Silverstein – cùng làm việc trong Tòa Tháp Đôi – cũng quyết định nghỉ việc hôm đó. Silverstein được hảng bảo hiểm trả hơn $4.5 tỉ do tòa nhà bị phá hủy. Silverstein rất thân tình với Rupert Murdoch, một tay trùm truyền thông gốc Do Thái, với Ariel Sharon, cựu tổng thống Do Thái, cũng như với Thủ Tướng Do Thái PM Benjamin Netanyahu. Silverstein thân thiết với Netanyahu đến độ, theo tờ báo Do Thái Haaretz, y thường nói chuyện với ông ta qua điện thoại mỗi chủ nhật.

Frank Lowy – Lowy, một người Do Thái sinh ở Tiệp Khắc, là chủ nhân của Westfield America, một trong những tổ hợp trung tâm thương mại lớn nhất thế giới. Lowy đã thuê khu thương mại trung tâm (Mall) ở WTC , chiếm khoảng 427,000 feet vuông diện tích bán lẻ của lầu. Lowy cũng là bạn bè thân thiết với những viên chức cao cấp Do Thái như Ehud Olmert, Ariel Sharon, Bibi Netanyahu, và Ehud Barak. Frank Lowy không có mặt tại Tòa Tháp Đôi ngày 9/11.

Lewis Eisenberg – Eisenberg là giám đốc của Port Authority of New York và đã chấp thuận hợp đồng thuê phố cho Silverstein và Lowy. Eisenberg là một người cống hiến tiền quan trọng cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Bush-Cheney, cũng như là một đối tác trong ngân hàng Do TháiGoldman-Sachs. Eisenberg từng là một thành viên của Hội Đồng Planning Board của nhóm áp lực chính phủ thân Do Thái mệnh danh là United Jewish Appeal/United Jewish Federation.

Ronald Lauder – Trùm tỉ phú mỹ phẩm Estée Lauder là chủ tịch ủy ban tư hữu hóa của Thống Đốc New York George Pataki. Y là nhân vật then chốt đứng ra vận động hành lang để tư hữu hóa WTC    – và y cũng đóng vai trò then chốt trong việc tư hữu hóa căn cứ không quân Stewart Air Force Base. Lạ thay, đường bay của phi vụ 175 và 11 lại trực tiếp gặp nhau trên phi trường nầy. Lauder hoạt động tích cực trong nhiều tổ chức Do Thái và đã thành lập một trung tâm cho cơ quan tình báoMossad ở Herzliya, Do Thái, mang tên Lauder School of Government Diplomacy and Strategy. Lauder được nghi là tay đầu sỏ trong kế hoạch 9/11.
An ninh của World Trade Center trong tay Do Thái
  
Yếu tố kiểm soát then chốt thứ nhì là an ninh cho WTC . Yếu tố nầy cần có để cho phép truy cập vào những khu vực chiến lược của trung tâm để đặt chất nổ trong giai đoạn trước khi xảy ra các cuộc tấn công. Hợp đồng điều hành an ninh tại WTC    được giao cho Kroll Associates sau vụ đánh bom năm 1993. Kroll còn có biệt hiệu là "Wallstreet's CIA". Hợp đồng nầy do cơ quan Port Authority của New York chấp thuận, và Kroll Associates được trả $2.5 triệu để tăng cường lại hệ thống an ninh cho WTC. Chủ nhân của Kroll Associates là hai tay Do Thái tên là Jules & Jeremy Kroll. Quản đốc của Kroll Associates    lúc bấy giờ là Jerome Hauer, và tay nầy cũng được chọn để điều hành cơ quan Office of Emergency Management (OEM) của Thị Trưởng Guiliani từ 1996 đến 2000. Y là nhân vật chủ chốt đã vận động để cơ quan nầy được đặt để trong    WTC    Building 7 của Silverstein (tòa nhà thứ ba sẽ bị đánh sập trong vụ 9/11). Jerome Hauer cũng là người Do Thái và là một tayZionist sừng sỏ. Rose Muscatine Hauer, mẹ của Hauer, là chủ tịch danh dự của phong trào Lập Quốc Israel, một trong những tổ chức Zionist trung tâm dính líu trong việc thành lập và hỗ trợ Nhà Nước Israel. Chính Jerome Hauer là người đã khuyến cáo Tòa Bạch Ốc xử dụng "CIPRO," một loại kháng sinh chống Anthrax – một tuần lễ trước vụ tấn công Anthrax qua bưu điện. Hauer là một "chuyên viên" về khủng bố sinh học (Bio-Terrorism), nhưng phản ứng của y trong vụ tấn công Anthrax qua bưu điện lại chậm chạp, và y lợi dụng thời cơ để nhắc đi nhắc lại điệp khúc "Osama Bin Laden."
  

Ai giết John O'Neil?

John O'Neil, một cựu đặc vụ FBI, trước kia tình cờ lại được giao nhiệm vụ điều tra Bin Laden, và nay được Jerome Hauer thuê làm giám đốc an ninh tại WTC. Quả là ngoạn mục khi O’Neil lại bị giết ngay trong ngày làm việc đầu tiên của ông tại WTC – 9/11. Điều quan trọng cần ghi nhớ là O’Neil đã nghĩ việc ở FBI sau khi cuộc điều tra của ông về vụ tấn công khu trục hạm U.S.S. Cole bị Đại Sứ Mỹ gốc Do Thái ở Yemen là Barbara Bodine cản trở và phá hoại. Lý do là vì vụ tấn công đó có thể không do Al Qaeda thực hiện. Khu trục hạm nầy bị hỏa tiễn Do Thái bắn để chuyển hướng dư luận chống lại người Ả Rập (Al Qaeda), cũng như để trả đũa đảng Dân Chủ đã không xem trọng những đe dọa khủng bố. Kết qua là một George Bush Jr. được phóng lên tổng thống kịp lúc cho vụ 9/11. Tất cả kịch bản nầy được chôn vùi trong khối hỏa mù quan liêu phức tạp.
  

An ninh phi trường trong tay Do Thái

Yếu tố kiểm soát thứ ba cần được thiết lập là yếu tố an ninh tại tất cả những phi trường từ đó những phi vụ không tặc sẽ xuất phát. Công tác rà soát hành khách cần phải được đảm trách bởi những nhân viên được điều khiển để cho phép một số người hay vật dụng nào đó (như vũ khí, chẳng hạn) được lên máy bay. Công ty phụ trách an ninh phi trường  tại ba phi trường xảy ra những vụ mệnh danh là không tặc là Huntsleigh USA, một chi nhánh của ICTS International và do Ezra Harel và Menachem Atzmon làm chủ - cả hai đều là Do Thái. Công ty nầy được điều hành bởi những "chuyên viên" trong lãnh vực an ninh và tình báo – nghĩa là tình báo Do Thái. Đa số nhân viên đều thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái (Zionism). Thật khó tin khi công ty an ninh nầy – vốn phụ trách an ninh tại cả hai phi trường Boston Logan và Newark – lại "lơ là" đến nỗi cho phép 19 người Ả Rập lên 4 phi cơ khác nhau với những dụng cụ rạch thùng, gậy, và thậm chí một cây súng nữa.

Menachem Atzmon, nguyên thủ quỹ của đảng Likud trong thập niên 80, đã dính dáng trong một tai tiếng chính trị Do Thái, cùng với Ehud Olmert và những đảng viên Likud khác. Y bị kết án gian lận, giả mạo giấy tờ, và vi phạm luật Party Funding Law.

Công ty ICTS International cũng phụ trách an ninh phi trường khi tên mang bom trong giày (shoe bomber) Richard Reid lên một phi cơ với cái được nói là một quả bom trong giày. Nếu Reid thực sự là một tên khủng bố thay vì một con mòng của Mossad, thì lý ra ICTS đã không để hắn lên máy bay. Một điểm nữa cho thấy sự đồng lõa của ICTS: một vài tiếng trước khi Dự Luật Patriot Act được bỏ phiếu thành luật, nó được sửa đổi để giúp những công ty ngoại quốc phụ trách an ninh trong vụ 9/11 được miễn tố. Điều nầy ngăn chặn những tòa án Hoa Kỳ không được đòi hỏi ICTS    ra làm chứng hay trao những băng ghi hình an ninh từ các phi trường.
Umar Farouk Abdulmutallab (được mệnh danh là "Underwear Bomber")  là một người Đạo Hồi ở Nigeria và được nói là một tên khủng bố đã toan châm ngòi những chất nổ giấu trong quần lót khi đang trên chuyến bay Northwest Airlines Flight 253 từ Amsterdam đến Detroit, Michigan, vào ngày Giáng Sinh 25/12/2009. Abdulmutallab đã lên phi cơ đến Mỹ từ phi trường Schiphol Airport ở Amsterdam. Kurt Haskell, một luật sư ở Michigan, cũng đáp cùng chuyến bay đó và nhớ đã nhìn thấy Abdulmutallab và một người đàn ông trông giống người Ấn Độ ăn mặc bảnh bao đã giúp Abdulmutallab lên máy bay. Haskell nói rằng Abdulmutallab đã lên máy bay mà không có thông hành. An ninh tại phi trường Schiphol Airport cũng do công ty Do Thái ICTS International đảm trách.
  

Biết trước
Vào tháng 10/2000, khoảng 11 tháng trước khi xảy ra vụ 9/11, một sỹ quan Phòng Không Do Thái về hưu và một cựu chiến binh của trận Yom Kippur War (1973), đi thu thập những cành thường xuân Anh (English Ivy Cuttings) tại nghĩa trang Gomel Chesed Cemetery ở McClellan và 245 Mount Olive Avenue, gần ranh giới thành phố Elizabeth và Newark, New Jersey. Gomel Chesed Cemeterylà một nghĩa trang Do Thái. Câu chuyện giữa họ và một người thứ ba đến từ một chiếc xe Lincolnđã có người nghe lỏm được:

- "The Americans will learn what it is to live with terrorists after the planes hit the twins in September.(Người Mỹ sẽ biết thế nào là sồng với bọn khủng bố sau khi những máy bay đánh vào tháp đôi vào tháng Chín).
- "Don’t worry, we have people in high places and no matter who gets elected, they will take care of everything.(Đừng lo, chúng ta có những người trên chóp bu và bất luận ái đắc cử đi nữa thì họ cũng sẽ lo hết mọi chuyện).

Người nghe được câu chuyện trên đã thuật lại cho FBI nhiều lần chỉ để bị làm ngơ mỗi lần như thế.
  

Các công dân Do Thái được báo trước

Odigo, một công ty instant messaging (hội thoại trực tuyến) của Do Thái, thú nhận rằng, hai tiếng trước khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào WTC, hai nhân viên của họ đã nhận được những cảnh báo về một vụ tấn công sắp xảy ra. Cảnh báo nầy đã không được chuyển đến các cơ quan hữu trách.Odigo có một qui định trong những dịch vụ của họ cho phép chuyển tiếp những nội dung hội thoại qua một hệ tìm dựa trên quốc tịch. Nếu hai người Do Thái nào đó được cảnh báo thì có thể hai người nầy đã chuyển tiếp cảnh báo đó đến những người Do Thái khác. Có thể là như thế nếu xét rằng, trong số 4000 người Do Thái được nghĩ đã làm việc trong hay chung quanh    WTC    và Pentagon, chỉ có 5 (năm) người chết – 5/4000 người Do Thái. Theo thống kê, nếu không được cảnh báo, thì khoảng 10% có thể đã chết (nghĩa là 400/4000). Nhưng chỉ có 5 người Do Thái chết và 2 trong số 5 người đó đang bay trên những chuyến bay được nói là bị không tặc! Như thể chỉ có 3 người Do Thái chết tại chính trung tâm WTC    vào ngày 9/11 – một con số thống kê đầy ngạc nhiên! Con số đó chỉ áp dụng cho những người dân Do Thái (Israeli nationals), chứ không phải những người Mỹ gốc Do Thái (American Jews) – số người nầy chết khá nhiều tại WTC    trong vụ 9/11.Odigo có những văn phòng tại New York, và ở Herzliya, thuộc Israel. Herzliya cũng là địa bàn của những tổng hành dinh Mossad.
  

Những cảnh báo khác

Vào ngày Sep 10, 2001, chi nhánh Tokyo của Goldman Sachs cảnh báo những nhân viên Mỹ của họ nên lánh xa những buildings Mỹ. ZIM, một công ty Do Thái, đã di tản khỏi văn phòng của họ (10,000 square feet) trên tháp North WTC    một tuần trước biến cố 9/11, bỏ ngang hợp đồng thuê phố. 49% của công ty nầy do chính phủ Israel sở hữu. Hợp đồng thuê phố đến cuối năm 2001 mới mãn, và công ty nầy phải chịu phạt $50,000 vì chấm dứt sớm.

Sau nầy, Michael Dick, một nhân viên FBI, người bấy giờ đang điều tra việc gián điệp của Israel trước và sau vụ 9/11 và theo dõi những động thái đáng nghi ngờ, đã bị Michael Chertoff cách chức – tay nầy bấy giờ là giám đốc cơ quan hành sự Bộ Tư Pháp, và là một tay hỗ trợ đắc lực cho chủ nghĩaZionism (Lập Quốc Do Thái). Theo nguồn tin của một nhân viên chìm CIA từng làm việc bên cạnh Dick, những "dọn nhà Do Thái (Israeli movers)" đã đưa chất nổ vào khi ZIM di tản ra. Như thế chỉ còn một công ty Do Thái trong WTC    là Clearforest với 19 nhân viên vào ngày 9/11, nhưng thực sự chỉ có 5 nhân viên có mặt trong tòa nhà hôm đó và tất cả 5 người nầy đều thoát được cả.
  

Những móc nối của cơ quan tình báo Mossad

Năm 2001, một trung tâm nghiên cứu ưu tú của Quân Đội Hoa Kỳ đã thiết kế một kế hoạch nhằm thực thi một hòa ước quan trọng giữa DoThái – Palestine, một kế hoạch đòi hỏi khoảng 20,000 binh sỹ được trang bị tối tân đồn trú khắp Israel và nhà nước Palestine mới thành lập. Người ta tiên liệu những biến cố trong năm đầu tiên của hoạt động bảo vệ hòa ước, và nhìn thấy những hiểm họa đối với những binh sỹ Hoa Kỳ đến từ cả hai bên. Khi nói về Mossad, cơ quan tình báo Do Thái, các sỹ quan Quân Đội Hoa Kỳ nhận xét: "Wildcard. Ruthless and cunning. Has capability to target U.S. forces and make it look like a Palestinian/Arab act." (Khó lường. Tàn nhẫn và xảo quyệt. Có khả năng nhắm vào lực lượng Hoa Kỳ và xem đó như là một hành động Palestine/Ả Rập). Điều ngạc nhiên là nhận xét trên được tường thuật lại trên tờ Washington Post vào ngày September 10, 2001.
  

Gián điệp Do Thái quanh vụ 9/11

Trước vụ 9/11 không bao lâu, hơn 140 người Do Thái đã bị bắt vì bị tình nghi gián điệp. Một số trong bọn họ đóng vai những sinh viên nghệ thuật. Những nghi can nầy nhắm vào và thâm nhập những căn cứ quân sự, DEA, FBI, Secret Service, ATF, U.S. Customs, IRS, INS, EPA, Interior Dept., U.S. Marshal’s Service, US Attorneys Offices, những văn phòng bí mật của chính phủ, những tư gia không niêm yết của các viên chức công lực và tình báo. Hầu hết những nghi can đều phục vụ trong ngành tình báo quân sự Do Thái, trong những đơn vị chặn sóng thám sát điện tử    hay những đơn vị cài đặt chất nổ. Hàng chục tên Do Thái bị bắt  trong những quày (kiosks) của các trung tâm thương mại Hoa Kỳ giả bán đồ chơi để làm bình phong cho các hoạt động gián điệp. 60 nghi can bị bắt đã làm việc cho công ty Do Thái AMDOCS chuyên cung cấp hầu hết những dịch vụ điện thoại qua hổ trợ thư mục (directory assistance calls) và hầu hết những hồ sơ gọi (call records) và dịch vụ hóa đơn cho Hoa Kỳ thông qua những hợp đồng được ký với 25 công ty điện thoại lớn nhất Hoa Kỳ. Tất cả những tên mệnh danh là không tặc 9/11 đều có căn cước giả. Trong một cuộc hành quân hỗn hợp FBI-CIA nhắm vào tên không tặc đầu sỏ Mohammad Atta ở căn cứ Fort Lee, NJ, năm 2001, cuộc hành quân nầy bị những nhân viên Do Thái chụp hình và do đó đã thất bại. Những tên Do Thái nầy được xem như đã tìm cách bao che những toán không tặc tương lai.

Sau vụ 9/11, hơn 60 tên Do Thái đã bị bắt dựa trên Đạo Luật Patriot anti-Terrorism Act hay vì vi phạm nhập cảnh. Một số trong bọn họ là lính hiện dịch Do Thái. Một số bị hỏng trắc nghiệm nói dối khi bị thẩm vấn về những hoạt động thám sát chống Hoa Kỳ. Một số được xác định đã gián điệp chống người Ả Rập. Trong số 90 tên Do Thái bị bắt có một nhóm năm tên, nay được nhiều người biết đến như là những "dancing Israelis," bị nhận điện tại nhiều địa điểm đang quay phim và reo mừng những cuộc tấn công. Những tên nầy bị cảnh sát New York bắt. Những nhân viên cảnh sát và FBI bắt đầu nghi ngờ khi họ tìm thấy những bản đồ của thành phố với một số địa điểm được tô nổi, những dao rạch thùng (những thứ mà các tay không tặc được nói đã xử dụng), $47,000 tiền mặt độn trong một bít tất, và những thông hành ngoại quốc. Cảnh sát cũng nói với một tờ báo địa phương ở New Jersey, những con chó đánh hơi bom đã được đưa đến chiếc xe van    và chúng phản ứng giống như đánh hơi được chất nổ. Về sau, FBI xác định rằng ít nhất hai trong số 5 tên Do Thái nêu trên là những nhân viên của Mossad.    Năm tên đó là Sivan, Paul Kurzberg, Yaron Schmuel, Oded Ellner, và Omer Marmari.
  

Xe bom trực chỉ cầu George Washington Bridge

Tờ Jerusalem Post về sau tường thuật rằng một xe van trắng bị chặn lại khi nó đến gần cầu George Washington Bridge, nhưng quốc tịch của những nghi can không được tiết lộ. Nội dung bản tường thuật: "Các cơ quan an ninh Hoa Kỳ trong đêm đã chặn một xe bom trên cầu George Washington Bridge. Chiếc xe van, có chứa thuốc nổ, bị chặn lại trước đầu cầu. Nhà chức trách tình nghi bọn khủng bố dự định cho nổ đoạn giao thông giữa New Jersey và New York. Đoạn băng truyền tin của cảnh sát cho thấy rằng hai nghi can trong chiếc xe bắt đầu bỏ chạy khi xe bị chặn lại và ngay sau đó bị bắt với một số chống cự nào đó. Một trong những biến cố lạ lùng hơn của ngày đến dưới hình thức một chiếc xe van trắng bí ẩn đậu cách WTC    vài lốc đường, trên đường 6th và King Street, có một bích họa (mural) bên hông vẽ hình một chiếc phản lực đâm vào tòa tháp đôi và nổ tung. Tất cả những chiếc xe van trắng (white vans) đều thuộc về công ty "Urban Moving Systems" do Dominic Suter làm giám đốc, một điệp viên Do Thái; tên nầy lập tức bay trở lại Israel sau vụ tấn công. Hai cựu viên chức CIA xác nhận rằng công ty Do Thái nầy là một bình phong cho Mossad. Hai viên chức nầy ghi nhận rằng những xe dọn nhà là một một bình phong tình báo thông thường. Những tên Do Thái bị câu lưu 71 ngày trước khi được Michael Chertoff lặng lẽ phóng thích – tay nầy là một thành viên của phong trào lập quốc Do Thái và là giám đốc cơ quan hành sự thuộc Bộ Tư Pháp thời đó.
  

Tình báo Do Thái và P-Tech, công ty nhu liệu Do Thái

Những hệ thống nhu liệu P-Tech là cửa hậu đột nhập máy tính. Hầu hết những hệ thống vi tính nào có thể liên quan đến quyết định cho cất cánh những phản lực cơ chiến đấu  vào ngày 9/11        đều xử dụng nhu liệu P-Tech. Danh sách khách hàng của P-Tech bao gồm FAA (Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang), N.A.T.O (Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương), United States Armed Forces (Quân Đội Mỹ), Congress (Quốc Hội HK), Dept. Of Energy (Bô Năng Lượng), Dept. of Justice (Bô Tư Pháp), FBI (Cơ Quan Điều Tra Liên Bang), Customs (Thuế Quan), the IRS (Sở Thuế), the Secret Service (Sở Mật Vụ), và ngay cả Tòa Bạch Ốc.
Michael S. Goff, một Zionist, là quản đốc tiếp thị của P-Tech và cũng đã làm việc cho công ty cơ sở dữ liệu Do Thái, Guardium (Amit Yoran làm giám đốc). Công ty nầy nhận tài trợ của Cedar Fund, Veritas Venture Partners,  StageOne, tất cả đều là những công cụ tài trợ cho    Mossad. Do đó, vớiP-Tech, những gì người Mỹ có, khi cần, cũng chỉ là một điệp viên Mossad mang quốc tịch Mỹ (American "sayan") – tức Michael S. Goff, với những nhân viên Mossad cung cấp thông tin và chỉ huy trong khi y làm việc với những "đối tác" Hồi Giáo người Leban của y ở P-Tech.



Tại sao một luật sư Mỹ trẻ đang làm việc cho một xí nghiệp luật danh tiếng (Sedar & Chandler) tại tỉnh nhà của y bỗng nhiên bỏ nghề luật để làm việc cho một công ty nhu liệu    tầm thường mới ra nghề do một người Leban và một người Saudi sở hữu và tài trợ? Gia đình của Goff là một gia đình khả kính và tiếng tăm ở Worcester, Mass. Y có vị thế vững vàng tại một xí nghiệp luật danh tiếng sau khi ra trường luật. Với Goff, nhu liệu P-Tech – được cấy khuẩn trapdoors (cửa hậu) and Trojan Horses (ngựa gỗ) – được bán ra và tải lên hầu hết những hệ thống vi tính nhạy cảm. Cùng những hệ thống đó, nhưng vào ngày 9/11/2011, chúng đã thất bại thê thảm    hay hoạt động hữu hiệu là tùy theo quan điểm của bạn.


Tập đoàn nhu liệu vi tính MITRE

MITRE là một tổ chức hợp đồng quốc phòng đứng đầu là cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo James Schlesinger. Người ta nói Schlesinger là một tín đồ Luther sùng đạo, nhưng biên dạng Wikipedia cho thấy bố mẹ của y là người Nga/Áo gốc Do Thái và do đó chắc chắn y là một Zionist.P-Tech, cùng với    tập đoàn MITRE, đã chiếm tầng trệt của FAA trong hai năm trước vụ 9/11. Công việc đặc biệt của họ là tìm hiểu những vấn đề tương tác giữa FAA, NORAD và Không Quân HK trong trường hợp khẩn cấp.
  

Phi cơ điều khiển tự động

Phi cơ đầu tiên đâm vào WTC    (North Tower) và đánh trúng phòng máy điện toán của công tyMarsh & McClennan vừa mới thuê Kroll Associates để phụ trách về an ninh. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng những phi cơ đâm vào WTC    đều được điều khiển chính xác bằng remote control. Mặc dù nghe có vẻ như khoa học giả tưởng, kỹ thuật remote control cho phi cơ đã có từ nhiều thập niên. Tập đoàn SPC Corporation đã cung ứng hệ thống flight termination system (Chấm dứt phi vụ bằngremote control) và hệ thống command transmitter system (hẹ thống điều khiển viễn liên), một kỹ thuật cho phép phi cơ được điều khiển viễn liên trong trường hợp phi công mất khả năng hay phi cơ bị không tặc. Rabbi Dov Zakheim, một công dân Mỹ gốc Do Thái, là giám đốc của công ty Systems Planning Corporation và là Thứ Trưởng Quốc Phòng được bổ nhiệm từ 2001 đến 2004 dưới thờiGeorge W. Bush. Zakheim là người chịu trách nhiệm về sự biến mất của $2.6 TRILLION khỏi những sổ sách của Pentagon. Câu chuyện nầy bị chôn vùi dưới đống gạch vụn của vụ 9/11. Đặc khu của Pentagon bị "đánh trúng" hay "nổ tung" có chứa thông tin ngân sách của nhiều năm, cũng như những nhân viên kế toán, lưu trữ hồ sơ – nhiều người trong số họ đã chết trong vụ 9/11. Vào tháng 5/2001, khi Zakheim phục vụ tại Pentagon, chính Tridata Corporation, một chi nhành của công tySPS của y, giám sát cuộc điều tra về đợt tấn công "khủng bố" đầu tiên vào WTC trong năm 1993. Cơ hội nầy có lẽ đã giúp họ hiểu biết cặn kẻ những hệ thống an ninh và những thiết kế của WTC. Theo trang web SPC, một khách hàng mới nhất thời đó là căn cứ không quân Eglin AFB    ở Florida.Eglin rất gần với một căn cứ không quân khác ở Florida – tức căn cứ MacDill AFB, nơi mà Dov Zakheim đã hợp đồng để gởi ít nhất 32 chiếc Boeing 767, như một phần của hợp đồng thuê mướn phi cơ giữa hảng Boeing và Pentagon. Căn cứ trên quyền được truy cập vào những phi cơ Boeing, những hệ thống điều khiển viễn liên, và những quan điểm công khai của y trong tài liệu PNAC, rất có thể y thực sự là một khuôn mặt chủ chốt trong những vụ tấn công 9/11.
  
Quân Đội Hoa Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó

Theo Dr. Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân Đội HK, "Với tư cách một phân tính gia chiến lược, tôi tuyệt đối tin rằng vụ 9/11, từ đâu đến cuối, là một hoạt động cổ điển do Mossad đạo diễn. Nhưng Mossad không hành động một mình…" Ông nói tiếp,    "Bin Laden phủ nhận trách nhiệm, do đó nói rằng, mặc dù y cám ơn Allah vì những cuộc tấn công đã xảy ra, nhưng y không làm chuyện đó, nhưng Hoa Kỳ đòi hỏi Afghanistan do Taliban cai trị phải giao nạp y cho Hoa Kỳ. Taliban trả lời rất hợp lý: ‘Hãy cho chúng tôi bằng chứng và chúng tôi sẽ giải giao ông ta cho các ông.’ Nhưng HK phớt lờ và tấn công. Tại sao? Tại vì họ không có bằng chứng thuyết phục, và sẽ không bao giờ có – ngay cả vào đêm trước cái chết công khai của Bin Laden năm 2011, FBI cũng không đề cập gì đến 9/11 trên bố cáo ‘Most Wanted’ liên quan đến y trên Internet."
  

WikiSpooks: 9/11: Israel did it

9/11: Do Thái là thủ phạm 
Kỳ II


** Nội dung chính của tài liệu nầy lấy từ Information Underground forumtháng 5/2009, với tựa đề "Israel did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là một trong số vài phiên bản khác nhau về đề tài nầy. – Đỉnh Sóng

Quân Đội Hoa Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó

Dr. Alan Sabrosky, cựu Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học Chiến Tranh của Quân Đội Hoa Kỳ (HK), đặt vấn đề không những đối với âm mưu bao che vụ 9/11 mà còn đi xa hơn thế. Cũng như nhiều người khác, ông cho thấy, về mặt vật lý, vụ tấn công khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, ông thuộc số ít ỏi những người đã đưa ra một kết luận mà nhiều người cho là hiển nhiên nhưng ít ai có can đảm nhìn nhận: không thể tiến hành vụ 9/11 mà không có những tài nguyên đầy đủ của cảCIA lẫn Mossad; và vụ 9/11 đã phục vụ quyền lợi cốt lõi của cả hai cơ quan nầy. Sabrosky cũng đặt vấn đề liên quan đến bao che truyền thông đối với vụ 9/11: Chúng ta hãy nhìn kỹ tại sao truyền thông chính dòng lại chú ý đến cái phòng quần áo của Sarah Palin thay vì phải phanh phui những trò lừa dối trắng trợn, những mâu thuẫn và bất nhất trong hành xử của chính phủ Mỹ đối với vụ 9/11 và những hậu quả của nó.
  
Chủ nghĩa Zionism (Lập Quốc Do Thái) và sự phản bội
  
Điểm hiển nhiên không phải là 60,000 người Mỹ đã chết hay bị thương trong một cuộc chiến khởi động do sự phản bội hay cái thế giới mà cuộc chiến đó đe dọa tiêu diệt. Người Mỹ đã quay  lưng trước những thực tại hiển nhiên nầy tương tự như họ đã quay lưng với Việt Nam. Sabrosky gởi lời cảnh cáo dưới đây đến Israel và những người Mỹ gốc Do Thái đang hỗ trợ họ, những người mà ông xem như là những kẻ phản bội:
"Nếu những người Mỹ nầy và những ai giống họ nhận thức đầy đủ mức độ đau khổ của họ ra sao - và đau khổ mà chúng ta đã giáng xuống người khác ra sao – khi những đau khổ đó được đặt để trên ngưỡng cửa của Israel và những người hỗ trợ Israel ở HK, thì họ sẽ quét sạch hết những tay làm chính trị, báo chí cũng như bọn bồi bút mà những trò nói dối và bất trung đã đưa đến cảnh nầy và che đậy nó với họ. Rất có thể họ sẽ rời bỏ Israel bấy giờ chẳng khác nào Carthage sau khi bị La Mã tiêu diệt. Đó sẽ là sai lầm lớn của chính Israel."


Chúng ta có bao giờ tự hỏi tại sao những điều Sabrosky nói ra ít có người nghe? Phải chăng HK đang trong một cuộc đấu súng trong đó kẻ thù lớn nhất của họ lại ở phía sau lưng, giết hại dân của họ, cướp bóc họ trắng trợn?
  
BAO CHE
  
Điều tra 9/11 trong tay Do Thái


Ngay sau những vụ tấn công 9/11, hệ thống Zionist lũng đoạn một cách bài bản ở hậu trường để thui chột bất kỳ cuộc điều tra hợp pháp nào có thể cho thấy những gì đã thực sự xảy ra hôm đó. Mục tiêu của họ là kiểm soát bất kỳ và tất cả những góc cạnh của cái mệnh danh là điều tra để họ có thể nhanh chóng bao che bất kỳ và tất cả bằng chứng nào cho thấy sự dính líu của Do Thái.
  
Tất cả những thẩm phán bổ nhiệm đều là người Do Thái


Alvin K. Hellerstein – Một thẩm phán của U.S. District Court thuộc Southern District, New York, và đã từng dính líu trong một số ca liên quan đến những khuôn mặt lớn trong vụ 9/11, kể cả ca chính liên quan đến ba hảng hàng không, những công ty phụ trách an ninh phi trường ICTS International NV  Pinkerton, các sở hữu chủ của World Trade Center (WTC),  Boeing Co., công ty sản xuất máy bay. Hellerstein là một thành viên Zionist trung kiên và một công dân Israel có những móc nối vơi Mafia Do Thái từ  năm 1965. Vợ của Hellerstein là một cựu viên chức cao cấp và hiện là thủ quỹ của AMIT. Theo trang web của tổ chức nầy, "Được thành lập năm 1925, AMIT là cơ quan hỗ trợ hàng đầu thế giới cho giáo dục và những dịch vụ xã hội dành cho trẻ em và thanh niên Do Thái, bồi dưỡng và giáo dục trẻ em Do Thái trở thành những thành viên hữu ích, đóng góp cho xã hội." (Như sẽ thi hành những âm mưu qui mô hơn 9/11?)


Michael B. Mukasey – Thẩm phán Do Thái chính thống nầy giám định cuộc tranh tụng giữa Larry Silverstein và các công ty bảo hiểm sau vụ 9/11.    Silverstein được bồi thường $4.5 tỉ. Mukasey đã ngăn chặn mọi điều tra qui mô về trương hợp năm tên Dancing Israelis bị bắt vì dính líu đến vụ 9/11. Y đã đóng một vai trò trong việc phóng thích chúng. Sau nầy y được Tổng Thống Bush bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Tư Pháp.


Michael Chertoff    - Giám Đốc Cơ Quan Hành Sự của Bộ Tư Pháp lúc xảy ra vụ 9/11. Y chủ yếu theo đuổi chủ trương KHÔNG điều tra vụ 9/11. Y đã để cho hàng trăm gián điệp Do Thái bị bắt trước biến cố 9/11 trở về lại Israel. Y cũng là một thẩm phán trong vụ tấn công đầu tiên vào WTCnăm 1993. Người ta nói Chertoff mang quốc tịch đôi Mỹ/Do Thái. Gia đình y là một trong những gia đình lập quốc Israel và mẹ y là một trong số những nhân viên đầu tiên của Mossad, cơ quan tình báo của Israel.


Kenneth Feinberg – Người đứng ra thành lập quỹ bồi thường nạn nhân ($7 tỉ). Quỹ nầy được một đảng Zionist kiểm soát và đã thuyết phục được 97% những gia đình nạn nhân nhận tiền với điều kiện bãi bỏ yêu cầu điều tra luật định về vụ 9/11.


Sheila Birnbaum – Một tay Zionist chủ chốt khác thuộc xí nghiệp luật Skaddan,    dính líu trong âm mưu bao che vụ 9/11. Birnbaum được chỉ định là "'special mediator (trọng tài đặc biệt)" cho những đơn kiện của 3% những gia định quyết định không để bị mua chuộc  bằng tiền. Từ đó không thấy có kết quả nào đáng kể xảy ra cho những đơn kiện nói trên.


Benjamin Chertoff – (Anh em họ với Michael Chertoff). Ben đã viết một bài trên tờ Popular Mechanics, tuyên bố sẽ "vạch trần những thuyết âm mưu về 9/11." Ngụy luận khôi hài của y làm mất giá trị đáng kể cho bài viết mặc dù nó vẫn được trích dẫn rộng rãi bởi những người bênh vực "official narrative (phiên bản chính thức)."


Stephen Cauffman – Lãnh đạo những cuộc điều tra của Viện National Institute of Standards and Technology (NIST) về xây cất và hỏa hoạn của WTC, những điều tra chung qui chỉ đưa đến một bao che có hệ thống việc sụp đổ building số 7 của WTC. Luận điểm của NIST vẫn là: hỏa hoạn, cùng với những thiệt hại nhẹ do các mảnh gây ra, đã làm sập building số 7.
  
9/11 Commission (Ủy Ban 9/11) bị Do Thái kiểm soát


Philip Zelikow (Quốc tịch kép Mỹ/Do Thái) là giám đốc điều hành của 9/11 Commission. Zelikow được xem như là kẻ gác cổng của ủy ban nói trên và chức giám đốc điều hành (executive director) được xem là chức năng quyền thế nhất của ủy ban đó. Tay Do Thái Zionist nầy trách nhiệm tạo dựng phiên bản hư cấu được trình bày như là 9/11 Commission Report – phiên bản chính thức. Bản báo cáo chứa đựng không biết bao nhiêu điểm bất bình thường rõ rệt, mâu thuẫn, thiếu sót, và giả tạo trắng trợn.


Ban đầu Henry Kissinger   được bổ nhiệm vào chức nầy nhưng đã từ chức vì bị phản đối dữ dội. Đó là cơ hội giúp tay điệp viên Zionist Zelikow nắm quyền. Zelikow có nhiều xung đột quyền lợi rõ ràng khiến y không thể nói sự thực với người dân HK về những vụ tấn công 9/11. Zelikow là một tay trong của chính quyền Bush, từng có mặt trong toán chuyển tiếp đầu năm 2000. Từ năm 1989 đến 1991, y làm việc với Condoleezza Rice trong Hội Đồng An  Ninh Quốc Gia (National Security Council) cho chính quyền Bush. Từ năm 1996 đến 1998, Zelikow là giám đốc của Aspen Strategy Group, trong đó có Condoleezza Rice, Dick Cheney và Paul Wolfowitz như là những đồng sự của y. Sau khi George W. Bush nhậm chức, Zelikow được bổ nhiệm vào một chức vụ trong Hội Đồng Tư Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng Thống (PFIAB). Chức vụ giám đốc điều hành của Zelikow trong Ủy Ban 9/11 biến y thành "kẻ gác cổng (Gatekeeper)," có quyền định đoạt vấn đề nào được phép hay không được phép điều tra. Y cũng bí mật tiếp xúc vơi một trong những cô vấn thân cận của Bush - Karl Rove – xuyên suốt quá trình thai nghén bản báo cáo.
  
Tang vật hiện trường bị nhanh chóng lấy đi và phá hủy


Hai công ty Metals Management  SIMS group của Alan D. Ratner đã nhanh chóng dọn hết những sắt thép/mảnh vụ    của WTC và chở đến những lò đúc Á Châu. Alan Ratner là người Do Thái. Y đã bán hơn 50,000 tấn thép tang vật hiện trường cho một công ty Trung Quốc với giá $120/tấn. Y không những thủ tiêu bằng chứng từ một trong những hiện trường tội phạm lớn nhất trong lịch sử, mà còn thu được một món lợi béo bỡ khi làm thế.
  
Những nhân vật Do Thái trong vụ 9/11


Cần ghi nhận rằng những tay Do Thái thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái (Zionism) có mặt rất đông đảo trong chính quyền Bush. Một nhóm chủng tộc thiểu số chỉ có 2% dân số HK lại có đến 42 người trong những chức vụ chóp bu trong nội các của Bush. Những con số đó minh họa rõ nét qui mô kiểm soát của người Do Thái trên chính phủ HK trong thời điểm 9/11. Vụ 9/11 không thể xảy ra nếu không có sự dính líu của những nhân vật Zionist chủ chốt dưới đây:


Giáo sỹ Dov Zakheim – Đồng tác giả của tài liệu PNAC (Project for the New American Century) nói về tái thiết quốc phòng HK với chủ trương cần phải có một vụ Trân Châu Cảng tương tự để động viên HK. Phục vụ tại Ngũ Giác Đài với chức vụ kiểm soát viên từ tháng 5/2001 đến tháng 3/2004. Hai khoảng tiền lớn do y giám sát đã biên mất khỏi Ngũ Giác Đài. Lúc đầu, $2.3 trillion ($2,300 tỉ) được Donald Rumsfeld báo cáo đã biến mất (September 10, 2001) và về sau Zakheim không thể giải thích sự biến mất của một ngàn tỉ khác nữa. Zakheim cũng đã cho bán thêm những máy bay F-15 F-16 cho Israel với giá chỉ bằng một phần giá thực sự của chúng.


Michael Chertoff – Phụ tá bộ trưởng tư pháp đặc trách cơ quan hành sự Bộ Tư Pháp, sau nầy là Giám Đốc An Ninh Quốc Gia (Homeland Security). Vợ y, Meryll Chertoff, là một giám đốc vùng của ADL (Anti-Defamation League), một tổ chức cực đoan Do Thái từng tai tiếng về gián điệp.


Richard Perle – Chủ tịch Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng của Ngũ Giác Đài. Y bị đuổi khỏi văn phòng của TNS Henry Jackson trong thập niên 1970 sau khi Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (NSA) bắt quả tang y chuyển giao những tài liệu mật cho Israel.


Paul Wolfowitz – Thứ Trưởng Quốc Phòng và là thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng của Ngũ Giác Đài.


Douglas Feith (Quốc tịch kép Mỹ/Do Thái) – Giám đốc chương trình tái thiết Iraq. Cùng với Wolfowitz, Feith thực sự làm việc trong Nội Các Chiến Tranh (War Department) khi vụ 9/11 xảy ra. Y bị sa thải khỏi Hội Đồng An Ninh Quốc Gia năm 1976 vì bị nghi ngờ chuyển giao những tài liệu bí mật cho Israel. Douglas Feith đã thành lập "Office of Special Plans" ngay sau vụ 9/11, nguồn gốc của tất cả những tin tức tình báo ngụy tạo nhằm tố cáo Iraq phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và có những quan hệ với Al Qaida.


Eliot Abrams – Cố vấn then chốt của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council). Liên kết với các nhóm thảo thuyết tội phạm Zionist thân Do Thái: AEI, PNAC, CSP,  JINSA. Quan hệ mật thiết với những tay Zionist đầu nậu khác như Perle, Feith, Wolfowtiz, và Bill Kristol. Bí buộc tội nói dối trước Quốc Hội trong vụ Iran-Contra nhưng về sau được Bush khoan hồng.


Marc Grossman (Quốc tịch kép Mỹ/Do Thái) – Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách chính sách chính trị lúc xảy ra vụ 9/1. Y từng tiếp xúc với Tướng Mahmoud Ahmad, Giám đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan(Pakistan’s ISI).


Ari Fleischer (Quốc tịch kép Mỹ/Do Thái) — Phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc cho Bush khi vụ 9/11 xả ra; có quan hệ với nhóm cực đoan mang tên Chabad Lubavitch Hasidics. Chính y đã trình bày với báo chí những nói láo về vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq.
  
Những tay viết diễn văn cho Bush thổi phồng số thương vong Do Thái


Vào ngày Sept 20, 2001, trong bài diễn văn đọc tước lưỡng viện Quốc Hội theo sau vụ 9/11, Bush đã thổi phồng con số thương vong của người Do Thái trong vụ tấn công từ 5 lên 130.

Ai viết diễn văn cho Bush?

David Frum: Tay Zionist nầy là người viết diễn văn cho Bush vào lúc đó và là người chịu trách nhiệm thổi phồng số người Do Thái chết lên 26 lần so với con số thực sự. Tại sao y làm điều nầy? Vì y là một tay Zionist và cố gặt hái cảm tình đối với Israel và phóng Israel lên như một "đồng minh vĩ đại"    của HK và nay là những "đồng đội" trong cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố. Y cũng là đồng tác giả với tay Zionist Richard Perle nhan đề "An End To Evil: How To Win The War On Terror." Y ủng hộ cuộc xâm lăng phi pháp và gian trá vào Iraq và kêu gọi thay đổi chế độ ở Iran và Syria.
  
Mohammed Atta trực tiếp cho thấy tội ác của Do Thái


Chưa được một tuần trước vụ 9/11, một số không tặc khờ khạo, kể cả  Atta, leo lên một tàu sòng bài Sun Cruz Casino Boat ở Florida. Không ai hiểu tại sao, và chuyện nầy chẳng bao giờ được điều tra.

Jack Abramoff: chủ nhân của những tàu sòng bài nói trên và là một tay Do Thái Zionist đã tiếp đãi những tên khờ Ả Rập đó trên du thuyền của y. Abramoff là một tay trong của chính quyền Bush đã từng có mặt trong Toán Cố Vấn Chuyển Tiếp (Transition Advisory Team) chỉ định cho Bộ Nội Vụ vào năm 2001. Abramoff là một tay vận động hành lang có tiền án và là một khuôn mặt trọng tâm trong nhiều vụ tai tiếng chính trị, gian lận, và những trò lừa đảo khác.    Y hiện bị tù 5 năm về tội gian lận, đồng lõa, và trốn thuế. Y cũng biết trước cuộc chiến Iraq do đám Zionist đạo diễn.
Một cuốn băng video tử đạo được thực hiện trước khi xảy ra vụ 9/11 cho thấy Mohammed Atta ở bên cạnh Ziad Jarrah, một tay bù nhìn Mossad người Leman có người anh em họ Ali Al Jarrah được khám phá mới đây là một điệp viên cho Israel trong 25 năm. (Ngay cả Adam Yahiye Gadahn, được mệnh danh là phát ngôn viên của Al Qaida,  hóa ra là một tay Do Thái Zionist có tên thật là Adam Pearlman ở California. Ông nội của Adam, Carl Pearlman, là một bác sỹ nổi tiếng và nằm trong Ban Giám Đốc của Anti-Defamation League, một tổ chức cực đoan Do Thái).
  
Ai toan phá hoại Tòa Nhà Quốc Hội Mexico?


Theo tường thuật của La Vox De Atzlan, hai người đàn ông giả dạng người chụp hình - nhưng thực sự là những nhân viên Mossad của Do Thái - đã bị bắt bên trong trụ sở quốc hội Mexico ngày 10/10/2001 có mang theo súng 9 mm, 9 quả lựu đạn, chất nổ, ba ngòi nổ, và 58 viên đạn, nhưng được thả vì áp lực của Sứ Quán Israel. La Vox De Atzlan nhận định: "Chúng tôi tin rằng hai tên khủng bố Zionist sẽ phá sập trụ sở quốc hội Mexico. Giai đoạn thứ nhi là động viên cả báo chí Mexico lầm báo chí HK qui trách Osama bin Laden. Rất có thể lúc đó Mexico cũng sẽ tuyên chiến với Afghanistan, đưa binh sỹ và tất cả xăng dầu có thể có để chống lại bọn khủng bố Hồi Giáo."

Những tên khủng bố bị bắt là Salvador Guersson Smecke (Đại tá hồi hưu Israeli), 34 tuổi, và Saur Ben Zvi, 27 tuổi. Những tên nầy được phóng thích sau một cuộc họp khẩn cấp cao giữa Bộ Trưởng Ngoại Giao Mexico Jorge Gutman, Tướng Macedo de la Concha, và một đại diện ngoại giao của Ariel Sharon bay sang Mexico City vì mục đích nầy.
  
Nhận định của một số nhân vật tầm vóc
  
Cựu Tổng Thống Ý Francesco Cossiga – Ông là người phát hiện "chiến dịch đội lốt" nầy, và đã nói với tờ báo lâu đời nhất và nhiều độc giả nhất của Ý rằng vụ tấn công khủng bố 9-11 là một cuộc tấn công đội lốt do Mossad và CIA điều hành, và đây là chuyện dễ hiểu giữa những cơ quan tình báo thế giới. Đây là đại để phát biểu của Cossiga với tờ Corriere della Sera:


"Nay tất cả những chính giới dân chủ ở Hoa Kỳ và Âu Châu, đặc biệt những giới thuộc cánh trung tả của Ý đều biết vụ tấn công tai họa đó được hoạch định và thi hành bởi CIA của Mỹ và Mossad của Israel với sự giúp đỡ của thế giới Zionist, nhằm qui trách cho những quốc gia Ả Rập và để thuyết phục những cường quốc Tây Phương can thiệp vào Iraq và Afghanistan."


Cựu Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan – Trong một cuộc phỏng vấn chỉ vài tuần lễ sau vụ 9/11, Hamid Gul - Cựu Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Pakistan (ISI) từ 1987-1989 – nói với Arnaud de Borchgrave của hảng thông tấn United Press International rằng ông ta tin Mossad, chứ không phải al-Qaeda là thủ phạm của vụ tấn công, và cho rằng, "nếu Hoa Kỳ có bằng chứng nào đối với Al Qaeda, thì họ nên trình ra cho một tòa án quốc tế. Ông tuyên bố: "Hoa Kỳ bỏ ra $40 tỉ mỗi năm cho 11 cơ quan tình báo của họ. Đó là $400 tỉ trong 10 năm. Tuy nhiên chính quyền Bush nói họ bị đánh bất ngờ. Tôi không tin điều đó. Trong vòng 10 phút sau khi tháp thứ nhì của World Trade Center bị đánh trúng, CNN liền nói Osama bin Laden đã làm chuyện đó. Đó là một lối thông tin xuyên tạc do những thủ phạm thực sự hoạch định. Nó tạo ra ngay một định kiến và khích động dư luận quần chúng, ngăn chặn cả những người thông minh cũng không thể suy nghĩ cho chính mình được."


Dưới đây là một vài trích đoạn từ cuộc điều trần Vancouver Hearing on 9/11 của Susan Lindauer.


(…) "Tôi đệ trình bản tự khai có tuyên thệ nầy như bằng chứng về những hành động tội ác của Tổng Thống George Bush, Phó Tổng Thống Richard Cheney, Bộ Trưởng Tư Pháp John Ashcroft, Bộ Trưởng Tư Pháp Alberto Gonzales, Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia  Condoleeza Rice… Nó sẽ chứng minh rằng những viên chức đó đã đánh trống thổi kèn cho một cuộc chiến chống Iraq như một hệ quả khả thể của cuộc tấn công (9/11), kích thích động lực và thời cơ cho một toán tình báo độc lập đặt những chất nổ khắp Toà Tháp Đôi để tối ưu hóa những thiệt hại và bảo đảm kết quả."

(I submit this sworn affidavit as evidence of criminal actions by President George Bush, Vice President Richard Cheney, Attorney General John Ashcroft, Attorney General Alberto Gonzales; Secretary of Defense Donald Rumsfeld and National Security Adviser, Condoleeza Rice… It will prove that those officials hyped a War with Iraq as a probable outcome of the attack, exciting motive and opportunity for an orphan intelligence team to lay explosives through the Towers to maximize damage and guarantee the outcome.)


(…) Tôi, Susan Lindauer, xin tuyên thệ rằng tôi lần đầu được biết về Âm mưu 9/11 qua đơn vị trưởng CIA của tôi, Dr. Richard Fuisz, vào trung tuần tháng Tư 2001…Những đe dọa đó bắt nguồn từ những cấp cao nhất trong chính phủ, trên Giám Đốc CIA và Ngoại Trưởng…Đó chỉ có nghĩa là Tổng Thống George Bush, Phó Tổng Thống Richard Cheney hay Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld… Văn phòng Tổng Thống và CIA biết rõ âm mưu. CIA thiếu "tình báo động cơ" để chặn đứng cuộc tấn công, nhưng chính âm mưu đó đã được họ biết.
  
(Còn tiếp)







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét